Thứ Hai, 12 tháng 4, 2021

 

   Diệu Nghĩa Đà-la-ni

Kho Chân Ngôn Bí Mật Thông Dụng

(Phần VI)


XXIX. Phổ Hiền Chân Ngôn


Đây là Chân Ngôn tối thắng hy hữu đệ nhất, Đức Nguyệt Thượng Quang Như Lai trao truyền Chân Ngôn này cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu người tu Bồ Tát Thừa vừa mới nghe qua Đà-la-ni này liền được Bất Thoái Chuyển, mau chóng thừa sự tất cả Đấng Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri. Hay tiêu diệt tất cả nghiệp chướng, đạt được sự an vui giàu có, thân được thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý được thanh tịnh, thông đạt tất cả biển Đại Bí Mật, hay mãn tất cả biển nguyện, liền thấy tất cả Như Lai.

Quán Âm Bồ Tát do nghe Đà-la-ni này liền chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn, đắc được Lăng Nghiêm Tam Ma Địa, chứng được Bảo Ấn Tam Muội, Diễm Cự (Đuốc lửa) Tam Ma Địa, Hải Ấn Tam Ma Địa, Phổ Biến Hư Không Tam Ma Địa. Chứng được hằng hà sa số môn Tam Ma Địa như vậy, lại được nghe tám vạn bốn ngàn (84000) Môn Đà-la-ni của Vô Tận Khiếp. Do điều này được đủ Tuệ đủ Hạnh. Được Trí Tuệ như vậy, thành tựu Pháp Sở Văn. Đối với Pháp Sở Văn của chư Phật thừa sự cúng dường không có gián đoạn. 

Quán Âm Bồ Tát nhập Kim Cương Man Trà La Tam Ma Địa, thuyết Phổ Hiền Chân Ngôn:

“Nẵng mô la đát nẵng đát la dã gia. Nẵng mô a lị gia. Phộc lô chỉ đế thấp phộc la gia. Mạo địa tát đát phộc dã, Ma ha tát đát phộc dã, Ma ha ca lỗ ni ca dã. Đát nễ dã tha, Khư nga phệ, khư nga phệ, khư nga phệ, Chước khuất sô khư phệ, Truật lễ đát la khư phệ, Già la noa khư phệ, Nhĩ hạ phộc khư phệ, Ca dã khư phệ, Ma ná khư phệ, Sa la khư phệ, Phệ ma khư phệ, Thú nhương khư phệ, Nễ nhĩ đa khư phệ, Bát la nê đà nẵng khư phệ, Tam ma tha khư phệ, Bá la nhĩ đa khư phệ, Mạo địa khư phệ, Sa la, sa la, sa la. Tát phộc một đà địa sắt sỉ đế. Bà la, bà la, bà la, đạt ma địa sắt sỉ đế. Ca la, ca la, ca la, tăng già địa sắt sỉ đế. Nẵng mô a lị dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la dã, Mạo địa tát đát phộc dã, Ma ha tát đát phộc dã, Ma ha ca lô ni ca dã, Nẵng mô nại phộc nẵng phộc để nam, Mạo địa tát đát phộc cú đê nam, A địa sắt sỉ đế đổ hàm, A duật lật ma lại gia ná nan đổ, Đát nễ dã tha, Tô la tỵ, tô la tỵ, Mẫu nễ, mẫu nễ, ma ha mẫu nễ. Ma để, ma để. Ma ha ma để, Nẵng mạc a lị dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la dã, Mạo địa tát đát phộc dã, Ma ha tát đát phộc dã, Ma ha ca lô ni ca dã. Tất điện đô, Tam mãn đa bạt nại la Đà La ni sa phộc hạ”

Khi Quán Tự Tại Bồ Tát nói Đà-la-ni này thì 92 câu đê Bồ Tát chứng được Thủ Lăng Nghiêm Tam Ma Địa, hằng hà sa số Bồ Tát chứng được Vi Diệu Đà-la-ni  Tam Ma Địa.

Đức Phật dạy:
Mỗi buổi sáng nên tụng Đà-la-ni  này 108 biến, mãn 21 ngày thì Quán Tự Tại Bồ Tát liền hiện thân đến, tất cả Nguyện mong cầu đều được mãn túc. 
Nếu có người bị tù tội, gông cùm, xiềng xích mà trì tụng bảy ngày liền được giải thoát. 
Nếu có người bị bệnh sốt rét, tụng Chú này thổi vào tai bên trái thì liền khỏi bệnh. 
Nếu có người bị trúng bệnh Phong, Tà Mỵ thì lấy Tô (bơ) dầu hòa với nhau, gia trì 21 biến rồi uống vào, liền được khỏi bệnh. 
Nếu có người bị đau răng thì gia trì vào Xỉ Mộc 21 biến, khiến nhấm liền khỏi. Nếu có người bị đau tai, lấy dầu của hạt Hoa Diệp bỏ vào trong vật khí bằng đồng nung nóng, gia trì bảy biến rồi nhỏ vào tai, liền khỏi bệnh. 
Nếu bị đau đầu, đau dạ dày (hay đau bụng). Gia trì vào bàn tay rồi xoa vỗ liền khỏi.
Nếu bị bệnh Quỷ Mỵ, kết Chú trên sợi chỉ gia trì 108 biến, khiến đeo liền khỏi bệnh. 
Nếu bị Noa Cát Nễ (Ḍākiṇī: Chồn tinh, tinh linh sống nơi gò mả) Mỵ, gia trì vào dầu bảy biến rồi bôi xoa lên các chi tiết, liền khỏi bệnh. 
Nếu bị trúng tất cả bệnh, gia trì vào bàn tay hoặc cành Dương Liễu rồi xoa phủi, liền khỏi bệnh. 
Các Pháp như thế nếu chí tâm hành trì và thực hành đều có hiệu nghiệm.

XXX. Bát Tự Đại Oai Đức Bí Mật Tâm Đà-ra-ni

NAMAḤ APARIMITĀYURJÑĀNA SUVINEŚCITA-TEJA-RĀJĀYA TATHĀGATĀYA NAMO MAṂJUŚRĪYA-KUMĀRA-BHŪTĀYA TADYATHĀ: AḤ VĪRA HŪṂ KHACARAḤ

Hán dịch:

Nẵng mồ A bả lị nhị đá dữu chỉ nương Nẵng vĩ nĩnh thất dã, dã ra tế nại ra dã, Đát tha nghiệt đá dã Nẵng mồ Mạn tộ thất lị duệ Củ ma la bộ đá dã Đát nễ dã tha. Úm ác vị ra hùm khư tả lạc.

Đức Thế Tôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Bát tự Tối Thắng Đại Oai Đức Tâm Chân Ngôn ấy, trụ ở chỗ nào, như Phật ở đời không có khác, hay hiện các món thần lực không thể nghĩ bàn của chư Phật, cũng hay làm đại thần thông biến hóa. Ta nay chỉ lược khen ngợi thiểu phần công đức của Đà-ra-ni này, chứ nếu nói đủ, thì vô lượng câu-chi na-do-tha trăm ngàn đại kiếp cũng nói không thể hết...

Đức Phật bảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn niệm Đà-ra-ni này một biến, tức hay tự hộ, hai biến hay hộ đồng bạn, ba biến tức đại ủng hộ, hàng trụ Thập địa Bồ-tát còn không thể vượt qua được, huống gì các tiểu loại chúng sanh. Nếu tụng bốn biến tức được ủng hộ toàn gia lớn nhỏ, năm biến tức hay ủng hộ tất cả quyến thuộc, sáu biến tức hay ủng hộ tất cả thành ấp thôn phường. Tụng bảy biến tức hay ủng hộ tất cả chúng sanh."

Khi muốn mặc y áo nên gia trì bảy biến, hay trừ tất cả ác độc và tai nạn. Khi rửa tay, rửa mặt nên trì bảy biến, hay khiến chúng sanh đem lòng quý ngưỡng, các ác quỷ thần nào thấy thảy đều hàng phục, tất cả người khác lại kính trọng mình, hàng phục ác tâm lòng sanh vui mừng.

Nếu có người bịnh hoạn, thân thể chi tiết đau nhức, gia trì trong nước nóng 108 biến, tắm rửa tức được trừ lành. Nếu mỗi sáng dậy, lấy một chén nước gia trì bảy biến mà uống, nơi thân có chánh báo gì thảy đều tiêu diệt, tai ách chi cũng không còn nữa. Các tam nghiệp chướng thảy được diệt sạch và lại thọ mạng sống lâu. Nếu gia trì bảy biến trong thực phẩm rồi ăn, tất cả các độc không thể làm hại.

Nếu thấy người ác và các oan gia, nên niệm tụng Chân Ngôn này, vì nếu oan gia kia khởi ác tâm liền bị hàng phục trừ nhiếp tâm sân, hướng đến tâm lành. Đến chỗ có sợ hãi phải chí tâm mà niệm Chân Ngôn này, liền được hết sợ.

Khi muốn nằm, tụng Chân Ngôn này 108 biến liền đắc mộng lành, biết việc thiện ác. Nếu có người bị các bịnh sốt nóng, người trì Chú nhìn vào mặt họ và thiết tha tụng niệm Chân Ngôn 1008 biến thì họ được trừ lành.

Nếu muốn lâm trận, nên lấy ngưu hoàng viết Chân Ngôn này trên giấy hoặc lụa, đeo nơi trên thân, tất cả dao gậy, cung tên giáo mác không thể làm hại. Khi vào trận, họa tượng đức Văn-Thù-sư-lợi Đồng Tử và Chân Ngôn này, để trên voi ngựa, dẫn quân đi trước, phía địch quân không thể làm hại, tự nhiên thoái tán. Họa tượng ngài có dạng Đồng Tử, tướng mạo oai nghi, cưỡi con kim sắc Khổng Tước, khi oán giặc trông thấy, thảy đều thoái tán.

Nếu thường niệm tụng, đã có những tội tứ trong, ngũ nghịch thảy đều tiêu diệt, thường được diện kiến đức Văn-thù Bồ-tát. Đi đứng nằm ngồi, thường cần nhớ trì, niệm tụng không quên. Mỗi khi niệm tụng, đủ 108 biến chớ cho đứt đoạn, thường được tất cả chúng sanh quy phục. 

Nếu gia trì nơi búi tóc bảy biến, tất cả chúng sanh thấy thảy đều hàng phục, người ác tránh xa bỏ đi. Nếu mỗi ngày ba thời niệm tụng, mỗi thời 108 biến, ra làm việc gì cũng đều xứng ý, sở cầu như ý, các nguyện ước đều được tùy tâm, hết thảy đều được viên mãn, được đại giàu sang, việc đã làm đều được tự tại. Khi mạng sắp lâm chung đắc Phổ Mônn Tam-muội và đích thân thấy đức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.”

Lúc bấy giờ Phật dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Thiện nam tử, Văn-thù-sư-lợi Đà-ra-ni này, nếu có quốc vương, vương tử, phi hậu, công chúa và các quan quý chép viết để thờ trong nhà, thì đắc đại phú quý. Có các tai nạn cũng đều tiêu diệt, sở cầu các nguyện đều được viên mãn, thường được thiện thần vi nhiễu gia hộ, không để quỷ ma đến nhiễu não.”

Khi ấy Phật lại dạy Mật Tích Chủ rằng: “Đà-ra-ni bí mật này không thể nghĩ bàn, oai đức của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn.”

Nếu hay mỗi ngày ba Thời, y theo Pháp vào Đạo Trường, một Thời riêng 108 biến thì sự mong cầu đều được vừa ý, viên mãn đầy đủ, được đại phú quý, chỗ hành tự tại, lúc lâm chung thời được Phổ Môn Tam Muội với nhìn thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát” 

Riêng về Pháp họa Tượng và Pháp kiến lập Đàn Pháp nếu hành giả muốn tu trì thì nên cầu thỉnh nơi vị Đạo Sư của mình. 


XXXI. Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Tâm Chú


OM ANALE VISADE VIRA VAJRA-DHARE BANDHA BANDHANI VAJRA-PANI PHAT HUM TRUM PHAT SOHA.


Trong Thần Chú Lăng Nghiêm tổng nhiếp tất cả 5 Bộ, do Thần Chú này khá dài nơi hành những hành giả ngày xưa thường trì tụng Tâm Chú ở trên, 5 Bộ thuộc về 5 phương gồm có:

1. Kim Cang Bộ: Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.

2. Bảo Sinh Bộ: Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.

3. Phật Bộ: Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.

4. Liên Hoa Bộ: Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.

5. Nghiệp Bộ: Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ.

Chú Lăng Nghiêm có thể nói là Đại Đà-la-ni, là cốt tủy trong Phật giáo. Chú Lăng Nghiêm là mạng mạch của Phật giáo, nhờ Chú Lăng Nghiêm mà Chánh Pháp tồn tại lâu dài. Chú Lăng Nghiêm là Đại Định, cũng là vua trong các Định, là Đại Đà-la-ni, tức là vua trong các Đà-la-ni. Chú Lăng Nghiêm có thể hàng phục được tất cả tà ma ngoại đạo. Tất cả yêu tinh ác độc và chúng quỷ thần oán tâm hại người đều chẳng thể khởi lòng ác. Thần chú này có thể làm cho những người phá Giới được phục hồi Giới căn thanh tịnh. Tất cả ước nguyện sẽ được thành tựu. Chỉ cần tụng lên thì Chư Thiên, Hộ Pháp, Thiện Thần đều cung kính bảo hộ hành giả. Sau khi mạng chung, sẽ tùy theo ước nguyện mà vãng sanh về các quốc độ trong mười phương của Chư Phật.

Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nhờ đại định Chú Lăng Nghiêm mà thành tựu.

Cho nên Như Lai đã tuyên thuyết Thần Chú này là để bảo hộ những hành giả mới tu học ở vào đời vị lai, hầu giúp họ vào Chánh Định, thân tâm an nhiên, và được an ổn tự tại. Lại nữa, họ sẽ không bị tất cả chúng ma quỷ thần cùng oán thù tai ương ở đời trước và nghiệp vay nợ thuở xưa từ vô thỉ đến não hại.

Thần Chú này có thể cứu hộ thế gian, giúp chúng sanh thoát khỏi sợ hãi kinh hoàng, và thành tựu trí tuệ xuất thế gian.


  •  Chính thế nên trong Kinh Lăng Nghiêm  Đức Phật dạy: "Nếu những chúng sanh nào mà có thể tụng Kinh hoặc có thể trì Chú này, cho dù Ta rộng nói công đức của họ suốt muôn kiếp thì cũng không hết. Những ai nương vào lời dạy của Ta và như Pháp hành Đạo, họ sẽ thẳng đến giác ngộ và không còn gặp ma nghiệp".

XXXII. Túc Mạng Trí Chân Ngôn


Na mô la đát-na thất cật nê Đát tha nga đa dã A la-hạt đế, tam miệu ngật-tam một đà dã Đát nãnh tha. Án, la đát-nê, la đát-nê Tô la đát-nê La đát-nỗ nột-bà vị La đát-na tam bà vị, sa-phạ ha.


Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng: “Có Đà-la-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sinh nghe Đà-la-ni này, hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu tội nghiệp cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt. Nếu có thể cả đời thọ trì chẳng gián đoạn, thì người đó thường biết Túc Mạng trong 7 câu đê đời”.


XXXIII. Bồ Đề Tràng Trang Nghiêm Đà-ra-ni

Nẵng mô bà nga phạ đế, vĩ bổ la, phạ na nẵng, kiến tán nỗ đắc cật sử bát đa, bát ra bà ta kế đổ, mẫu la đa ninh, tát phạ đát tha nghiệt đá tả. Nẵng mô bà nga phạ đế, xả chỉ dã mẫu nẵng duệ, đát tha nghiệt đa dạ, ra hạ đế, tam miểu tam một đà dã. Đát nễ dã tha Úm mạo địa, mạo địa, mạo địa, mạo địa. Tát phạ đát tha nghiệt đa ngu giả la, đà la đà la, ra hạ ra hạ, ra bát la hạ ra bát la hạ, la ma hạ mạo địa tức đa đà la, chủ lô chủ lô, xả đát la thấp nhị, tán tổ nễ đế. Tát phạ đát tha nghiệt đa tỳ sắc ngật đế, ngu niển, ngu nỏa phạ đế, một đà ngu nỏa phạ bà tế, nhĩ lý nhĩ lý, nga nga nẵng đát lệ. Tát phạ đát tha nghiệt đa, địa sắt sỉ đế, nẵng bà nghiệt đa lệ, xả ma xả ma, bát la xả ma bát la xả ma. Tát phạ bá bả, bát la xả ma ninh. Tát phạ bá bả, vĩ du đà ninh. Hổ lô hổ lô, ma hạ mạo địa, mạt nga, tam bát la tất thể đế. Tát phạ đát tha nghiệt đa, bát la đế sắt sỉ đa thuật đệ, ta phạ ha.

Người thọ trì Chân Ngôn này công đức không có ngằn mé, không có giới biên, không thể nghĩ bàn. Như Đức Văn Thù Bồ Tát nói với Đức Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ: "Nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác tuyên nói, cúng dường kinh quyển, nên biết người đó thu hoạch vô lượng vô biên công đức chẳng thể tính xiết cùng tận được.”

Hành giả thọ trì Chân Ngôn này có thể thành tựu Tất Địa, bước vào biển Tịch Diệt bất khả tư nghì của Chư Phật, được Chư Phật an ủi thọ ký. Đúng như Đức Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Đức Phật rằng: “Thế Tôn! Đại Đà-ra-ni Giáo Vương này có đại oai đức, có đại phước lợi, có đại thần thông. Người vừa mới xưng tên đều được căn lành lớn, thành tựu phước lớn.”

Với Đại Bi Tâm vô lượng, Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng về diệu dụng bất khả tư nghì của Chân Ngôn Vương này: “Đà-ra-ni này hay hoàn thành tất cả sự nghiệp, hay ban cho tất cả tất địa, hay tiêu diệt tất cả tội chướng, ra làm tất cả sự nghiệp đều thông đạt vô ngại. Nên giữ cho thân khí trong sạch, tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới sạch, mỗi ngày tụng 108 biến tức thấy tất cả chư Phật, viễn ly tất cả bệnh tật, được tất cả Hiền Thánh thường theo ủng hộ. Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, Tứ Đại Thiên Vương cũng thường theo ủng hộ, tất cả ý nguyện đều được đầy đủ, sau khi chết sẽ sanh về thế giới Diệu Hỷ, chẳng ở trong thai mẹ sanh ra, thường được hoa sen hóa sanh, đắc Túc Mệnh Trí. Nếu tụng 21 biến, sẽ xa lìa nghiệp quyết định ở địa ngục, tất cả tội thảy đều trừ diệt, quyết định chẳng bị rơi vào nẻo ác, ở trong các oán địch đều đắc thắng. Nếu tụng bảy biến thì tất cả đấu tranh, ngôn tụng, luận lý đắc thắng. Nên vào ngày 15 của kỳ bạch nguyệt, một ngày một đêm không ăn, tắm rửa trong sạch, mặc y sạch mới, ngồi kiết già trước tượng Phật, dùng hương hoa, đèn sáng cúng dường đức Thế Tôn, tụng Bồ Đề Tràng Trang Nghiêm Đà-ra-ni này một ngàn biến. Đủ một ngàn biến xong liền thấy đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai duỗi cánh tay màu vàng ròng xoa đảnh đầu của hành giả mà an ủy, khen rằng: “Lành thay, lành thay đại Trì Minh đại trượng phu! Ông đã tác pháp Bồ Đề Tràng Trang Nghiêm Đà-ra-ni thành tựu. Ông, người Trì Minh, nên đại dũng tinh tấn. Ông đã làm việc siêng năng cần khổ đó, đã viên mãn nhiều căn lành, muốn về thế giới của Phật nào thì tùy theo nguyện mà về.”

Người Trì Minh ấy, thân có hào quang rực rỡ chiếu diệu, thành tựu tất cả giáo pháp Chân Ngôn. Từ đó ngày ngày mãn tất cả nguyện. Do tác Pháp này nên thành tựu tiên hạnh. Giả sử hành giả có phạm năm tội vô gián, do một ngày một đêm nhịn ăn, niệm tụng thì tội ấy thảy đều tiêu diệt, đời này được thành tựu. Nếu ở nơi Tháp Xá Lợi, vào ngày 14 của tháng, một ngày một đêm chẳng ăn, tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới sạch, dùng vật khí bằng đồng tốt chứa đầy hạt cải trắng, tụng Đà-ra-ni này gia trì một ngàn biến, tức pháp thành tựu, sẽ ứng dụng được tất cả chỗ.

Lấy một nắm hạt cải trắng rải tán ở trong ao rồng, tất cả rồng liền vui vẻ tùy thuận người trì tụng. Nếu người trì tụng muốn vào Long Cung, thời Long Vương hứa cho vào, thảy đều tiếp đón lễ bái người trì Chú một cách nồng hậu, người ấy đi đến xứ nào thảy đều phụng giáo.

Lấy hạt cải trắng ném vào hư không thì sương muối, mưa đá liền ngưng, cũng có thể chận đứng gió bão.

Nếu ném hạt cải trắng rải tán bốn phương thì tất cả gió mây, muỗi mòng, các thứ chim bất tường như cú, vọ, các loài trùng bọ, cào cào, châu chấu, những trùng thú bạo ác … thảy đều bị cấm khẩu.

Nếu lấy hạt cải trắng ném vào trong lửa thì lửa chẳng thể thiêu đốt, ném vào sông nước thì dòng nước chẳng tuôn chảy, ném vào trong đồ vật đi buôn thì chẳng bị giặc cướp, chẳng nhìn thấy bọn ấy.

Nếu ném ở cửa cung của vua thì quốc vương, đại thần, hậu cung đều khiến vui vẻ; ném ở đại chúng thì đại chúng đều cùng cúng dường người ấy; ném vào đất địch thì địch quân ấy liền bị cấm chỉ; ném nơi cửa ải có lính canh giữ thì có thể ẩn thân mà đi qua.

Nếu rải tán trên lúa mạ thì chẳng bị sâu trùng làm tổn thương; nếu trời hạn hán thời ném ở ao rồng, tức giáng mưa lớn; nếu mưa mạnh bạo thời ném ở không trung, thì mưa rất mạnh bạo ấy liền dứt.

Nếu ném vào nhà của oan gia thì họ không còn hận nữa.

Nếu ném ở cửa thành, bên trong thành thì tất cả bức bách thảy đều tiêu diệt, tất cả Dạ Xoa, La Sát đều bỏ chạy mất.

Nếu lúc chiến đấu thời rải ném địch quân, chúng liền bị cấm chỉ, quân của ta được thắng. Nếu ngậm trong miệng thì tất cả đấu tranh, ngôn tụng, luận lý đều đắc thắng.

Nếu bỏ trong nước rồi cho người bệnh tắm rửa thì tất cả bệnh tật đều được trừ khỏi. Nếu có người bị bệnh quỷ mỵ, lấy hạt cải trắng hòa với đường cát rồi thiêu xông người bệnh, liền được giải thoát tất cả quỷ mỵ.

Nếu có dịch bò, hoặc người bị dịch, hoặc đồng nam đồng nữ bị dịch, ở ngã tư đường, lấy hạt cải trắng hòa với đất rồi thiêu đốt thì tất cả bệnh dịch thảy đều chấm dứt.

Nếu rải tán ở tất cả nơi trong tóc trên đầu của mình, sẽ được người cúng dường, tất cả người nhìn thấy đều sanh yêu mến.

Nếu người trì tụng từ ngày 14, dùng hai tay đè chân của tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, từ đầu hôm cho đến hết ngày rằm, sáng chiều niệm tụng không gián đoạn thì Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thân đứng trước mặt hành giả, tất cả ý nguyện đều được viên mãn.

Nếu đè lên bàn chân của Kim Cang Thủ Bồ Tát, tụng Đà-La-ni gia trì 1008 biến, hòa an tức hương với bơ thiêu đốt thì Kim Cang Thủ Bồ Tát liền hiện ở trước mặt, tất cả ý nguyện, mọi việc đều được thành tựu, trao giáo pháp chân ngôn cho người ấy, dưỡng dục như con của mình.

Lại có pháp: Lấy hai tay đè lên chân của Ma-ni-bạt-đa-la Dược Xoa, tụng Đà-la-ni 1008 biến sẽ được tài bảo rộng lớn, liền hiện thân ấy, lời đã nói ra liền làm theo.

Nếu dùng tay đè trên đảnh của Tỳ Sa Môn, đốt hương trầm thủy, tụng Đà-la-ni 80 biến, liền được một ngàn đồng tiền vàng.

Nếu quán gương mặt của Cát Tường Thiên Nữ, tụng Đà-ra-ni 1008 biến sẽ được một ngàn đồng tiền vàng.

Lại nếu y Pháp họa tượng, lập Đàn mà tu hành thì mau chóng đắc Vô Thượng Bồ Đề. 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét