Thứ Ba, 13 tháng 4, 2021

 

 Diệu Nghĩa Đà-la-ni

Kho Chân Ngôn Bí Mật Thông Dụng

(Phần VIII)


XXXVIIĐại Bảo Quảng Bát Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà-la-ni

Phạn ngữ Chú: 

Namaḥ sarva tathāgate-bhyo matiṣṭaṃti daśadiśi. Oṃ maṇi vajre hṛdaya vajre mārasainya vidrāvaṇi hana hana, vajragarbhe trāsaya trāsaya sarva māra bhavanāni hūṃ hūṃ saṃdhara saṃdhara buddha-maitrī, sarva tathāgata vajrakara adhiṣṭhite svāhā. 

Cảnh Giác Đà-la-ni: 

Oṃ sarva tathāgata maṇi śatadipte, jvala jvala, dharma-dhātu garbhe maṇi maṇi mahāmaṇi, tathāgata hṛdaya maṇi svāhā

Căn bổn Đà-la-ni:

Namaḥ sarva tathāgatanāṃ. Oṃ vipula- garbhe, maṇi -prabhe tathāgata nidarśane maṇi maṇi suprabhe vimale sāgara. Gambhīre hūṃ hūṃ jvala jvala Buddha vilokite guhya dhiṣṭita garbhe svāhā. Tâm đà la ni: Oṃ maṇi vajre hūṃ. 

Tùy tâm Đà-la-ni:

Oṃ maṇi-dhrāe hūṃ phat 


Phát âm Phạn ngữ Chú: 

Na ma, sòa va-ta tha ga tê, bi ô-ma ti sờ tam ti, đà sa đi si. Ôm ma ni, va di rê, hơ ri đà da, va di rê, ma ra sai ni da, vi đờ ra pa ni, ha na, ha na, va di ra ga bê, tờ ra sa da, tờ ra sa da, sòa va, ma ra, ba va na ni, hùm, hùm, sam đà ra, sam đà ra, bút đa-mai tri, sòa va, ta tha ga ta, va di ra ka ra, a đi sờ thi tê, soa hoa. 

Cảnh giác Đà-la-ni: 

Ôm, sòa va, ta tha ga ta, ma ni, sát ta đi tê, di va la, di va la, đạt ma-đà tu, ga bê, ma ni, ma ni, ma ha ma ni-ta tha ga ta, hơ rị đà da, ma ni, soa ha. 

Căn bổn Đà-la-ni:

Na ma, sòa va, ta tha ga ta nam. Ôm, vi pu la- ga bê, ma ni- pờ ra bê, ta tha ga ta, ni đà sá nê, ma ni ma ni, su pơ ra bê,  vi ma lê, sa ga ra. Gam bi rê, hùm, hùm, di va la, di va la, bút đa, vi lô ki tê, gu hi da, đi sờ thi ta, ga bê, soa ha. 

Tâm Đà-la-ni:

Ôm, ma ni, va di rê, hùm.

Tùy tâm Đà-la-ni:

Ôm, ma ni, đờ va rê, hùm, phát.


Đai Bảo Quảng Bác Thiện Trụ Bí Mật Đà-la-ni Kinh ghi rằng: Nếu có chúng sinh nào nghe Đà-la-ni này, thọ trì đọc tụng tinh tấn tu tập, ghi nhớ không quên, cầu đại thành tựu. Cho đến nghe tên hoặc dùng tay chạm vào, hoặc đeo trên thân, hoặc mắt nhìn thấy, hoặc viết Kinh Chú này, hoặc viết trên lụa trắng, hoặc viết trên tường vách. Tất cả chúng sinh khi nhìn thấy, người phạm ngũ nghịch tứ trọng, phỉ bàng Chánh Pháp, phỉ báng Thánh Nhân, thợ săn, người bán thịt, Nhi Khôi Quái, Nam Bà, Bố Yết Sa , người mù, người điếc, người chột mắt, người lưng gù, người đã làm điều ác, người câm, người nghèo thấp kém, người có nghiệp bất định, người bị lưới ma trói buộc, người bị rơi vào Tà Kiến, người tiếp xúc với loài Tỳ Na Dạ Ca, người bị ác tinh (sao xấu ) bức hại, người bị thất tinh gây hại… tất cả nghe Đà-la-ni này, quyết định sẽ chứng Vô Thượng Chánh Giác. Thậm chí đến loài bàng sanh, hươu, chim, muỗi, ruồi , con bướm, con dế, con kiến và các loài chúng sanh khác …như noãn sanh, thai sanh, hoá sanh, thấp sanh…Các chúng sanh khi nghe danh tự Đà-la-ni này, quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.


XXXVIII. Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni

Đại Tạng Kinh Phật Giáo, Tôn Thắng Đà-la-ni hiện lưu tồn chín bản khác nhau, chọn bản này vì tương đồng với bản dịch Phật Đà Bà Lợi

Phạn ngữ Chú(Cụ Túc bản):

 Namo bhagavate trailokya-prati-viśiṣṭāya buddhāya bhagavate tadyathā: oṃ viśuddhāya viśuddhāya asamasama samanta-avabhāsa spharaṇagati-gahana svabhāva-viśuddhe abhiṣiñcatu māṃ sugata vara-vacana-amṛta-abhiṣekai mahā-mantra-padai āharaāhara-āyus saṃdhāraṇi śodhaya śodhaya gagana viśuddhy-uṣṇīṣa vijaya viśuddhe sāhasra-raśmi saṃcodite sarva-tathāgata-avalokani ṣaṭ-pāramitā paripūraṇi [sarva-tathāgata] mati-daśa-bhūmi pratiṣṭhite sarva-tathāgata-hṛdaya-adhiṣṭhāna-adhiṣṭhita mahā-mudre vajra-kāya-saṃhatana viśuddhe. sarvaāvaraṇa-apāya-durgati pari-viśuddhe pratinivartaya āyuś śuddhe samaya-adhiṣṭhite. Maṇi maṇi mahā-maṇi tathatā bhūtakoṭi pariśuddhe visphuṭa buddhi śuddhe jaya jaya vijaya vijaya smara smara sarva-buddhaadhiṣṭhita śuddhe vajre vajra-garbhe vajraṃ bhavatu mama śarīraṃ sarva-sattvānām ca kāyapariviśuddhe sarva-gati pariśuddhe sarva-tathāgata siñca me samaāśvāsayantu sarva-tathāgata sama-āśvāsa-adhiṣṭhite bodhyā bodhyā vibodhyā vibodhyā bodhaya bodhaya vibodhaya vibodhaya samanta-pariśuddhe .Sarvatathāgata-hṛdaya-adhiṣṭhāna-adhiṣṭhita mahā-mudre svāhā.

Phạn ngữ phát âm Chú:

 Na mô, ba ga va tê, trai lô ky da-pơ ra ti-vi sít ta da ,bút đa da, ba ga va tê, ta đi da tha: Ôm vi sút đa da, vi sút đa da, a sa ma, a sa ma, sa mam ta-a va ba sa, sơ pha ra na ga ti-ga ha na, soa ba va-vi sút đê, a bi sin cha tu, mam, su ga ta, va ra-va cha na-a mi rị ta-a bi sê kai, ma ha-man tra pa đai, a ha ra-a ha ra-a dút, sam đà ra ni, sô đà da, sô đà da, gà ga na, vi sút đi-u si ni sa, vi già da, vi sút đê, sa ha rarát mi, sam cô đi tê, sòa va-ta tha ga ta-a va lô ka ni, sát –pa ra mi ta, pa ri pu ra ni (sòa va-ta tha ga ta) ma ti-đa sa-bu mi, pơ ra ti sờ thi tê, sòa va-ta tha ga ta-hơ rị đà da-a đi sờ tha na-a đi sờ thi ta-ma ha-mút rê, va di rê-ka da-sam ha ta na, vi sút đê. Sòa va-a va ra na-a pa da-đút ga ti, pa ri-vi sút đê, pơ ra ti ni vát ta da, a dút, sút đê, sa ma da-a đi si thi tê. Ma ni, ma ni, ma ha-ma ni, ta tha ga ta,bu ta cô ti, pa ri sút đê, vít pu ta, bút đi sút đê, già da, già da, vi già da, vi già da, sờ ma ra, sờ ma ra, sòa va-bút đa-a đi si thi ta, sút đê, va di rê, va di rê-ga bê-va di ram, ba va tu, ma ma, sa ri ram, sòa va-sát toa nam, cha –ka da pa ri vi sút đê, sòa va, ga ti, pa ri sút đê. Soa va-ta tha ga ta, sin cha, mê, sa mạt va sa dên tu, sòa va-ta tha ga ta, sa ma-ạt va sa-a đi si thi tê, bô đi da, bô đi da, vi bô đi da, vi bô đi da, sa mam ta pa ri sút đê. Sòa va-ta tha ga ta-hơ rị đà da-a đi si tha na-a đi si thi ta –ma ha-mút rê, soa ha.


Phật Đỉnh Tôn Thắng phạn danh là uṣṇīṣa-vijaya dhāraṇī, cũng có tên là "Trừ Cái Chướng Phật Đảnh’". Phật Đảnh Tôn Thắng là Mật Chú tối thượng thừa, đối với truyền thống người tu Kim Cang Thừa, đều rất xem trọng oai lực màu nhiệm của Thần Chú này, được xưng danh là "Tôn Pháp Thắng’", cũng được xem "Thanh Tịnh Chư Thú Tôn Thắng Đà-la-ni". Theo Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni Kinh ghi rằng: "Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni’" này, có tám mươi tám câu chi trăm ngàn hằng sa Chư Phật đã thuyết, đồng thủ hộ tán thán, và đồng ấn chứng. Vì Đà-la-ni này trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh, cứu tất cả sự khổ nạn trong cõi Diêm Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, và năng độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc. Đà-la-ni này cũng cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn Na, Ca Tra Phú Đơn Na , các quỷ thần, thậm chí độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi muỗi, côn trùng, điều được giải thoát.

 Đức Phật dạy: Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni của Ta đây có đủ oai thần lực, công đức rộng lớn như mặt trời sáng, như Ma Ni châu trong sáng, không bợn nhơ, ở nơi nào cũng phóng ánh quang minh phổ chiếu. Như 7 thứ báu thù thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan thần dân đều quý trọng ưa thích, mắt nhìn không chán. Môn Đà-la-ni này cũng như thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên chép, hoặc cúng dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng phước đức, tất cả hàng Thiên Long Bát Bộ đều kính trọng. Nếu có hàng vua chúa quan dân …biên chép Đà-la-ni này để trong tháp 7 báu, nơi tòa sư tử, nơi tháp ở ngã tư đường, hoặc treo trên phướn cao, dùng các thứ hương hoa, anh lạc, y phục... cúng dường Đà-la-ni này, người cúng dường sẽ có công đức vô lượng vô biên, tăng phước trí vô lượng. Người ấy chính là con của Phật, là đại Bồ Tát, vì đã cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua hoặc đi lại nơi có tôn thờ Thần Chú đó. Nếu có chúng sanh nào phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, phạm các trọng giới và tất cả tội nặng, sau khi chết phải đọa tam đồ thọ khổ. Nếu họ có phước duyên với tam bảo mà đi qua lại Tháp hoặc Phướn có để Đà-la-ni này, được dính hạt bụi hay cơn gió đến thân mình, hoặc được bóng Tháp Phướn che thân thì tất cả tội nặng đều tiêu sạch, sanh về cung Trời để hưởng sự an vui thù thắng, sau đó sẽ sanh về mười phương Tịnh Độ. Nên ở các nước Phật giáo như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam các tự viện và Chư Tăng Ni Phật tử đã dựng nhiều trụ Tháp, và khắc vào tháp hoặc trụ đá Thần Chú này, nhằm mục đích đem lại sự lợi ích cho pháp giới chúng sanh.

Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn nào thọ trì đọc tụng, công đức ấy năng trừ tội ngũ nghịch, thập ác trong vô lượng kiếp, sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.

Nếu có người nào thọ trì Đà-la-ni này, trừ tất cả tai nạn tật ách, hiện kiếp được Túc Mạng Trí, sau đó dạo chơi tự tại các cõi Trời và chư Phật quốc. Người ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí lấy tay xoa đầu thọ ký, thường ở đạo tràng, nghe hiểu thọ trì Chánh Pháp. Người ấy ba nghiệp (thân, ngữ, ý) thường thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ xúc dứt trừ, được cảm giác nhẹ, tăng thọ mạng, không bị đột tử (bất đắt kỳ tử). 

Nếu có người thọ trì đọc tụng, biên chép, cúng dường Đà-la-ni này, sẽ được vô lượng công đức, hưởng được sự vui thù thắng, chư Thiên Long Bát Bộ kính trọng, thiện thần hộ trì, Chư Bồ Tát ái kính, Chư Phật hộ niệm. Người thọ trì Chú này đến địa ngục, ngạ quỷ, các tội nhân ấy điều được giải thoát.

 Nếu có người nào bị bịnh nặng, chịu nhiều đau khổ, được nghe Đà-la-ni này, sẽ mau lành bịnh, tội chướng tiêu diệt. Thậm chí các loài chúng sanh nghe được Chú này đều xa lìa bệnh khổ, thoát thân bào thai, do hoa sen hóa sanh, tùy theo tâm nguyện mà thọ sanh, biết được duyên sanh kiếp trước.

 Nếu có người nào tụng một biến Chú này vào tai của bất cứ loài cầm thú súc sanh nào, thì kiếp sau không còn thọ thân cầm thú súc sanh, dù có nghiệp nặng bị đọa vào các chủng loại địa ngục, nhờ vậy cũng được thoát ly. 

Nếu người nào chưa trì tụng Chú này, mà tai nghe âm thanh của Đà-la-ni này, tức liền thành hạt giống Phật. Thần Chú này khi đã lọt vào tai, liền huân tập thành quả Chánh Giác, tuy nghiệp nặng cũng không thể chướng ngại. Dù người ấy dù bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh cũng không mất hạt giống Bồ Đề, mà còn nương oai lực Thần Chú ấy mà khởi tiến tu cho đến khi thành Phật.

Nếu chúng sanh nào một lần nghe được Đà-la-ni này, kiếp sau không có các tật bịnh và khổ não, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu trừ, sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Giác.

Nếu người nào mỗi ngày tụng Chú này, được cúng dường của tất cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.

 Nếu có người thọ trì Chú này, từ kiếp này trở về sau, vĩnh lìa ác đạo, ở cõi người thường được thọ sanh trong nhà quý tộc, hoặc sanh lên cõi Trời, cho đến được sanh về 10 phương Chư Phật Tịnh Độ, kết bạn đồng hành với Chư Bồ Tát, và sẽ chứng quả Vô Thượng Đẳng Giác.

Nếu có người nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng Đà-la-ni này, nhất tâm hồi hướng cầu nguyện về 10 phương Phật Tịnh Độ. Nếu người chết thần thức đã bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh... cũng được thoát khỏi ác đạo luân chuyển, được sanh lên cõi Trời. 


XXXIX. Vô Nhiễm Trước Đà-la-ni

Tadyatha sandharani apadharani susampratisthita sunama supratisthita vijayabala satya pratisinja suroha sinjanamati upadhani ubanamani abhisigni abhivyakara subhapati sunisita bahum gunja abhipada svaha.

Phạn ngữ phát âm Chú:

 Tát da tha, sa đa ra ni, a pa đa ra ni, su săm pra tít thi ta, su na ma, su pra tít thi ta, vi ja da ba la, sát da, pra ti sin ja, su rô ha, sin ja na ma ti, u pa đa ni, a ba na ma ni, a bi sích ni, a biv da ka ra, sú ba pa ti, su ni sí ta, ba hum, gun ja, a bi pa đa, soa ha. 

Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Tử rằng:

– Chân Ngôn Đà-la-ni Vô Nhiễm Trước này, nếu có Bồ Tát có thể khéo an trụ, có thể Chánh Thọ trì thì phải biết người đó hoặc ở một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp mà sự phát Chánh Nguyện không có cùng tận, thân cũng chẳng bị sự tổn hại của dao, gậy, độc dược, nước, lửa, thú dữ… Vì sao vậy ? Này Xá Lợi Tử! Vì Đà-la-ni Vô Nhiễm Trước này chính là mẹ của Chư Phật đời quá khứ, mẹ của Chư Phật đời vị lai, mẹ của Chư Phật đời hiện tại. Này Xá Lợi Tử! Nếu lại có người dùng bảy báu đầy trong mười a tăng kỳ xí gia ba ngàn đại thiên thế giới dâng cúng Chư Phật và dùng y phục, ẩm thực thượng diệu đủ thứ cúng dường trải qua vô số kiếp. Nếu lại có người đối với Đà-la-ni này, thậm chí một câu có thể thọ trì thì phước sinh ra nhiều gấp bội đối với phước kia. Vì sao vậy? Này Xá Lợi Tử! Vì pháp môn thậm thâm Đà-la-ni Vô Nhiễm Trước này chính là mẹ của các đức Phật.


XXXX. Như Ý Bảo Châu Đà-la-ni

Đại Bồ Tát Quán Thế Âm đối với người trời vì lợi ích lớn, thương xót thế gian ủng hộ tất cả, khiến cho họ được an lạc, có đại uy lực, việc cầu xin được như ý, nên Ngài đã tuyên thuyết Chân Ngôn này.

Tadyathà gate vigate nigate pratyarthake pratimitre suddhe mukte vimale prabhàsvare andare pandare ‘svete pandaravà‘sini Hari kantari kapili Pingaalàksi Dadhimukhi raksa pratimitre ‘suddha mukte vimale prabhàsvare andore pandare ‘svete pandaravà‘sini hari kantari kapili pingalàksi dadhimukhi raksa raksa…svàhà.

Hán dịch:

Đát điệt tha – Hát đế – hát đế – Nỉ hát đế – Bát lạt thất thể kê – Bát lạt để – Mật thất lệ – Thú đề – Mục để tỳ mạt lê – Bát lạt bà tá lệ – An trà lệ bát trà lệ – Thuế đế – Bát trà la bà tử nỉ – Hát lệ yết trà lệ – Kiếp tất lệ – Băng yết la ố tỷ – Đạt địa mục xỉ – Hát lạc xoa – Hát lạc xoa.

Con tên là… và chỗ ở này là… tất cả sự khủng bố, khổ não sở hữu… cho đến uổng tử đều lìa xa hết! Nguyện cho con không thấy việc tội ác, thường nhớ sự hộ niệm của uy quang Đại Bi Quán Tự Tại Bồ Tát – Tá ha.


XXXXIVô Thắng Đà-la-ni

Chân Ngôn này do Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ thuyết với tâm Đại Bi đối với Người Trời, vì lợi ích lớn, thương xót thế gian ủng hộ tất cả, có đại thế lực, việc cầu xin được như ý nguyện:

 Tadyathà muni muni munine hare mati mati sumati mahàmati ha ha ha mabha ina sthite pàpa vajrapàni ahain ciri ca svàhà.

Hán dịch:

Đát điệt tha – Mẫu ni mẫu nỉ – Mẫu ni lệ – Mạt để mạt để – Tô mạt để – Mạc ha mạt để – Ha ha ha – Ma bà – Dĩ na tất để đế – Ba hả – Bạt chiết la ba nỉ – Ố hám điệt lật trà – Tá ha.

 Đức Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Đức Thế Tôn:

"Thưa đức Thế Tôn! Thần Chú này của con tên là Vô Thắng Ủng Hộ. Nếu có nam hay nữ một lòng thọ trì, ghi chép, đọc tụng nhớ nghĩ chẳng quên thì con ngày đêm luôn luôn ủng hộ người đó, đối với tất cả sự khủng bố… cho đến uổng tử đều lìa xa hết".





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét