Thứ Năm, 15 tháng 4, 2021

 Diệu Nghĩa Đà-la-ni

Kho Chân Ngôn Bí Mật Thông Dụng

(Phần XII)


LXIII. Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú

Chân Ngôn này được Đức Phật thuyết ở cõi trời Tịnh Cư Thiên. Ngài bảo các vị Sao Tinh Tú, các vị Thiên Thần trong pháp hội, cách đây không xa có Đức Phật Ta La Vương Như Lai, vì thương tưởng chúng sanh, đã tuyên thuyết thần chú Xí Thạnh Quảng Ðại Uy Ðức Đà-la-ni là phương pháp để giải tai nạn và tật ách… Nếu có người nào, trì niệm Đà-la-ni này từ 108 biến đến 1000 biến, nhất tâm hồi hướng cầu tiêu tai giải nạn, khi tai nạn đến liền được hóa giải, sau khi chết được vãng sanh thế giới tây phương Cực Lạc.

Phạn ngữ chú:
Namaḥ samanta-buddhānām apratihata-śāsanānāṃ tadyathā oṃ kha kha khā hi khā hi hūṃ hūṃ jvala jvala prajvala prajvala tiṣṭhā tiṣṭhā ṣṭri ṣṭri sphaṭa sphaṭa śāntika śrīye svāhā.
Phát âm theo Phạn ngữ:
Na ma,sa măn ta- bút đa nam, a pơ ra ti ha tha, sà sa na nam, ta đi da tha: Om kha, kha, khà hi, khà hi, hùm, hùm, di va la, di va la, pơ ra di va la, pơ ra di va la, ti si tha, sờ tri, sờ tri, sà pha ta, sà pha ta, săn ti ka, sờ ri dê, sóa ha.

Hoa ngữ chú:
曩謨三滿哆。母馱喃。阿鉢囉底。賀多舍。娑曩 喃。怛姪他。唵。佉佉。佉呬。佉呬。吽吽。入縛囉。 入縛囉。鉢囉入縛囉。鉢囉入縛囉。底瑟姹。底瑟姹。 瑟致哩。瑟致哩。娑癹吒。娑癹吒。扇底迦。室哩曳。 娑縛訶。

Hán Việt ngữ Chú:
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha.



LXIV. Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú

Kinh Niệm Phật Ba La Mật, có ghi chép rằng: Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh thời mạt pháp, khi ấy kiếp số giảm, thọ mạng ngắn, kém phước đức, kẻ thành tâm tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người tu niệm Phật thần chú Đà-la-ni nầy, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc,đào tận rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về thế giới Cực-Lạc".

Chân Ngơn này, chính danh là Bạt Nhứt Thế Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đa-la-ni. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thường trì tụng vãng sanh tịnh độ đà la ni ấy, được đức A Di Ðà thường ngự ở trên đỉnh đầu, đêm ngày để ủng hộ hành giả, khiến cho kẻ oan gia trái chủ không có cơ hội trả thù, hiện đời sống an lạc, đến lúc lâm chung, tốc vãng sanh thế giới Cực Lạc, hà huống đêm ngày trì niệm, công đức bất khả tư nghị.

Phạn ngữ Chú:

Namo’mitābhāya tathāgatāya tadyathā amṛtod bhave amṛta-siddhaṃbhave amṛta-vikrānte amṛtavikrānta gāmini gagana kīrta-kāre svāhā.
Phát âm Phạn ngữ Chú:
Na ma, a mi ta ba gia, ta tha ga ta gia, tát đi da tha: A mi rị tốt -ba vê, a mi rị ta -sít đam ba vê, a mi rị ta -vi kờ răng tê, a mi rị ta -vi kờ răng ta, ga mi ni, gà ga na, kịt taka rê, soa ha.

Hoa ngữ Chú:
南無阿彌多婆夜。哆他伽多夜。哆地夜他。阿彌利 都婆毗。阿彌唎哆悉耽婆毗。阿彌唎多毗迦蘭帝。阿彌 唎哆毗迦蘭多。伽彌膩伽伽那。枳多迦利。娑婆訶。
Hán Việt Chú:
Nam mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ,Ta bà ha.

Minh Tăng Tông Bổn Tịnh Độ Hành Pháp nói: Trước khi tu trì chân ngôn này, người tu trì phải tắm rửa sạch, dùng nước súc miệng, dâng hương hoa, chấp tay cung kính, quỳ trước Phật đài, đêm ngày sáu thời trì niệm chú này. Nếu tụng bảy biến, tức diệt hết tứ trọng ngũ nghịch và thập ác phỉ báng Phật pháp, hiện đời an ổn, chế phục âm ma quỷ thần chúng. Nếu có người tụng đủ hai mươi vạn biến, tức cảm hạt giống bồ đề nảy sanh. Nếu tụng mãn ba mươi vạn biến, thì thấy được kim thân sắc tướng Phật A Di Đà, quyết định vãng sanh tây phương Cực Lạc.



LXV. //*//- CHƯ CHÂN NGÔN BÍ MẬT THIẾT YẾU

Đây là những Chân Ngôn thiết yếu bí mật mà hành giả Kim Cương phải biết, để khi nhập Mandala có thể tịnh trừ tất cả chướng ngại, nhận được tất cả sự gia trì tối thượng từ chư vị Bổn Tôn và chư vị Hộ Pháp Long thần, để giáng phục tứ ma thành tựu Đại Tâm Kim Cương của mình.
1. Phật Nhãn Chân Ngôn

On Bodaroshani Sowaka

Nguyện xin quy mạng Phật Nhãn khắp mười phương ba đời Như Lai Tối Thắng Tôn!

2. Thai Tạng Đại Nhựt Chân Ngôn

A Bi La Un Ken

Nhất tâm khể thủ lễ quy y trước Bổn Tôn của Kim Cang Giới! Thai Tạng Đại Nhựt Tôn!


3. Bất Động Minh Vương Chân Ngôn
Noomaku Samanda Bazaradan Senda Makaroshada Sowataya un Tarat Kanman.
Xin quy y tất cả các vị Kim Cang, đặc biệt hiện ra tướng bạo ác đại phẩn nộ để chiến đấu với phiền não và ác ma. Ngài Bất Động Minh Vương.

4. Giáng Tam Thế Minh Vương
On Sobanisoba Un Bazara Un Hatta.
Quy y với Hàng Tam Thế Minh Vương, đầy đủ Kim Cang lực, để phá hủy các Ma phẩn nộ.

5. Cam Lồ Quân Trà La Minh Vương Chân Ngôn
On Amiritei Un Hatta
Quy y Đức Cam Lồ Quân Trà Lợi Minh Vương! Phá dẹp những ma phẩn nộ.

6. Đại Uy Đức Minh Vương Chân Ngôn
On Shuchiri Kyararoha Un Ken Sowaka
Quy y vị có hắc thân đáng sợ hãi, là bậc Đại Uy Đức Minh Vương! Cầu cho được thành tựu hạnh phúc.

7. Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương
On Bazara Yakisha Un
Quy y Đấng Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương! Xin hàng phục các ác ma.

8. Đại Kim Cang Luân Chân Ngôn
Noomaku Shutchiriya Jibikyanan Tatagyatanan An Biragi Makashakyara Bajiri Tarai Bitamani Sanhanzani Taramachi Shitta Giriya Taran Sowaka.

Xin quy y tất cả ba đời chư Phật, vô cấu, thật là vô cấu, Đại luân Kim Cang Tam Muội thật kiên cố, thật là kiên cố, dũng kiện, thật là dũng kiện. Ở đời để giúp đời. Bậc cứu thế trừ dứt những cấu uế và phá bỏ hết! Hãy giúp cho con người được thành tựu trí tuệ tối thượng!



LXVI. Tối Diệu Kim Cương Tâm Đà-la-ni

Kinh Hoại Tướng Kim Cương Đà-la-ni có dạy:
Lúc bấy giờ Kim Cương Thủ nương theo thần lực của Đức Phật với sức gia trì của tất cả Như Lai, chư vị Bồ Tát… nên Kim Cương Phẫn Nộ nói: “Tối Diệu Kim Cương Tâm Đà-la-ni này không bị chặt đứt, không bị hư hoại, chân thật bền chắc, không bị gây trở ngại cũng không có lui sợ. Tất cả chúng sinh đều khiến cho khiếp sợ, hay cho chúng sinh tồi phục phiền não, cắt đứt các Minh Chú, trấn các Minh Chú vời đập nát các Hành hay phá hạnh kẻ khác, bẻ gảy các Ma, giải các Ma Chấp, câu cú nhiếp tất cả các chúng Bộ Đa. Lại khiến cho tất cả tu Minh Chú, người chưa thành tựu khiến được thành tựu, người đã thành tựu chẳng khiến cho quên mất, hết thảy ước nguyện đều khiến cho như ý, cũng hay hộ giúp tất cả chúng sinh được ngưng dứt tai nạn, tăng thêm lợi ích. Lại hay cấm chỉ các hữu tình ác mê muộn…. đều là sức của Đà-la-ni Thần Chú”.
Kim Cương Thủ nương theo thần lực của Đức Phật, liền nói Chân Ngôn:

Na mô la noa tra dạ da. 
Na mô tán tra phộc nhật-la bạt noa duệ, ma ha dạ già tất noa bạt đát duệ.
Đát điệt tha: Án, đát-la tra, đát-la tra, đổ-la tra gia, đổ-la tra gia, thất bồ tra, thất bồ tra, thất bà tra gia, thất bà tra gia, cô-lý noa, cô lý-noa,cô lý-noa bạt gia, cô lý-noa bạt gia.
Tát lý-phộc tát đỏa ni, bạt đa, bạt đa, tam bạt đa gia, tam bạt đá gia, bát-la ma, bát-la ma, tam bát-la ma gia, tam bát-la ma gia.
Tát lý-phộc bồ đát ni, cô tra cô tra, tam cô tra gia, tam cô tra gia. 
Tát lý-phộc thiết đốt-lỗ nam, cát tra cát tra, tam cát tra gia, tam cát tra gia. 
Tát lý-phộc tỳ đát-gia, phộc nhật-la, phộc nhật-la thất-bồ tra, phộc nhật-la, phộc nhật-la cát tra, phộc nhật-la, phộc nhật-la ma tra, phộc nhật-la, phộc nhậtla ma tha, phộc nhật-la, phộc nhật-la, a tra ha tát ni lạt, phộc nhật-la, tô phộc nhật-la duệ, sa-phộc ha. 
Hề, bồ lỗ, ni bồ lỗ, cát-lý noa, cô lỗ, nhĩ lý, thô lỗ, cô lỗ cô lỗ, phộc nhật-la tỳ táp gia, sa- phộc ha. 
Cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Cát tra cát tra, ma tra ma tra, la tra la tra, ma tra noa, bát-la ma tra noa duệ, sa-phộc ha. 
Tạt la tạt la, ha la ha la, tát la tát la, ma la gia, phộc nhật-la tỳ đát la noa duệ, sa-phộc ha. 
Thân đa thân đa, tần đa tần đa, ma ha cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Ban đa ban đa, qua-la đa, qua-la đa, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Thô lỗ thô lỗ, tán tra, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha Đát-la tát gia, đát-la tát gia, phộc nhật-la, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. Ha la ha la, phộc nhật-la, đa la gia, sa-phộc ha.
Bát-la ha la, bát-la ha la, phộc nhật-la, bát-la ban tạp noa duệ, sa-phộc ha. 
Ma đế, thất- đề la phộc nhật-la, tô đế, thất-đề la phộc nhật-la, bát-la đế , thất-đề la phộc nhật-la, ma ha phộc nhật-la, a bát-la đế ha đát, phộc nhật-la, a ma cát, phộc nhật-la, y hề phộc nhật-la, thất cát-lãng, phộc nhật-la gia, sa-phộc ha. 
Đa la đa la, đế lý đế lý, đổ lỗ đổ lỗ, tát lý-phộc, phộc nhật-la cô lan, a phộc-lý đát gia, sa-phộc ha.
A mẫu cương, ma la gia, phát tra, na ma tam mãn đa phộc nhật-la nam, tát lý-phộc phộc lạt, a phộc-lý-đát gia, ma ha phộc nhật-la ma a phộc liệt cát đát bế đát đát liệt, a tạt liệt, mạn tra lạt ma duệ, a đế phộc nhật-la, ma ha phộc liệt tỳ cát la noa, a tích đế, tá lạt tá lạt, đế đế-lý,đế đế-lý, định cát liệt đa, ha đa , ha để, tạt bạt đế, đế lý đế lý, ban đa ban đa, ma ha phộc liệt, phộc nhật-la , ngang cát, tá lạt gia, sa-phộc ha.
Na mô la noa tra dạ da. 
Na mô tán tra phộc nhật-la bạt noa duệ, ma ha dạ già tất noa bạt đát duệ. 
Đát điệt tha: Án, ha la ha la, phộc nhật-la, ma tha ma tha, phộc nhật-la, đổ noa đổ noa, phộc nhật-la, đa ha đa ha, phộc nhật-la, bạt tạt bạt tạt, phộc nhật-la, đa la đa la,phộc nhật-la, đa la gia, đa la gia, phộc nhật-la, đa lỗ noa, đa lỗ noa, phộc nhật-la, thân đa thân đa, phộc nhật-la, tần đa tần đa, phộc nhật-la,hồng phát tra. 
Na mô tán tra phộc nhật-la, cô-lỗ đà gia, hô lỗ hô lỗ, đế sắt-đà, đế sắt-đà, ban đà ban đà, ha noa ha noa, a di lý đế, hồng, phát tra.

Thần lực và diệu dụng của Chân Ngôn này rất lớn, không thể nghĩ bàn, như Kệ nói:

"Nghiệp tội đều trong sạch 
Trừ hết tất cả khổ 
Căn bản của các Kinh 
Trang nghiêm tướng Diệu Đức 
Hữu tình tổn hại căn 
Mạng hết với chết yểu 
Gặp lúc chẳng giàu có 
Và chư Thiên bỏ quên 
Bạn thân phản, ghét hại 
Bà La Môn cáu giận 
Quấy hại chẳng hòa thuận 
Thiếu tiền và nhiễu não 
Buồn lo, khổ bức bách 
Gặp nạn, nghèo khốn khổ 
Tinh Diệu ác, Chú Trớ 
Bị các Ma xâm hại 
Do ôm ấp lo âu 
Mộng thấy chẳng tốt lành 
Tắm gội đều trong sạch 
Nên nghe Kinh Tối Thắng.

Nếu có tâm tịnh thiện 
Mặc quần áo sạch sẽ 
Y Hạnh sâu của Phật 
Người thọ trì Kinh này 
Do sức uy thần đó
Thời các hữu tình ấy 
Hết thảy nhóm bệnh khổ 
Đều khiến tiêu diệt hết 
Phước thọ đều tăng ích 
Xa lìa các tội dơ 
Châu (ngọc châu), giới (hạt cải), hương, mạn (loài tực vật bò dài dưới đất), cỏ 
Báu không vết, Chiên Đàn 
Ngọc, Kim Cương, Chày, hoa 
Muối, nước sạch, bình vàng 
Hoặc dùng bạc làm bình 
Buộc tơ sạch, tràn đầy 
Số niệm hai mươi mốt (21) 
Hoặc đủ trăm tám biến (108 biến) 
Hoại Tướng Kim Cương Chú 
Quốc vương thường tắm gội".



LXVII. Kim Thân Đà-la-ni

Chân Ngôn kèm bản Phạn ngữ Chú:

1) Na mô một đà nẫm (NAMO BUDDHĀNĀṂ) 
2) Ma đế đà, na nga đa, bát-la đát-du đát-bán na nẫm (ATITĀNĀGATĀ PRATYUDPANNĀNĀṂ) 
3) Na mô a mi ta bà dã, đát tha nga đa dã, a la-hạt đế , tam miệu-tam một đà dã (NAMO AMITABHĀYA TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA) 
4) Đát nãnh tha (TADYATHĀ) 
5) Án (OṂ) 
6) Ma vĩ lị, ma vĩ lị (MĀ VĪRĪ MĀ VĪRĪ) 
7) Di đà phộc đế, di đà phộc đế (MEDHĀ-VATI_ MEDHĀ-VATI) 8) A mật-lị đổ nạp-bà phệ (AMṚTODBHAVE) 
9) Một đà ma đế (BUDDHA-MATI) 
10) Một đà bà thủy đa (BUDDHA BHĀṢITA) 
11) Tát lị-phộc đạt-lị-mộ lặc-ca nhập-phộc lý nễ (SARVA DHARMOLKĀ JVĀLINI) 
12) Một đề, một đề ( BUDDHI BUDDHI ) 
13) Ma ha một đề (MAHĀ-BUDDHI ) 
14) Ma hạ vĩ lị (MAHĀ-VĪRI) 
15) Phệ nga phộc để (VEGA-VATI) 
16) Nga lỗ noa phệ nga phộc để (GARUḌA VEGA-VATI) 
17) Ấn nại-la phộc nhật-la phệ nga phộc để (INDRA-VAJRA VEGA-VATI) 
18) Một đà vĩ lạc cát đế (BUDDHA VILOKITE) 
19) Mâu nĩ mâu nĩ (MUṆI MUṆI) 
20) Ma ha mâu nĩ phát tra ( MAHĀ-MUṆI PHAṬ) 
21) Na mô một đà đạt lị-ma tăng gìa nẫm mạt lệ na (NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHA VARDHA) 
22) Tát lị-phộc dược xoa, la xoa sa (SARVA YAKṢA RĀKṢASA) 23) Tất xá tả (PIŚĀCA) 
24) Cổ sắt-man noa (KŪṢṂĀṆḌA) 
25) Bố đát na (PŪTANA) 
26) Yết tra bố đát na (KAṬA-PŪTANA) 
27) Tát lị-phộc cật-la hạ nễ phộc nãnh (SARVA GRAHĀ DEVĀNĀṂ) 
28) Nạp sắt-tra tức đương (DUṢṬA-CITTAṂ) 
29) Ba la bế noa cương (PARAPĪḌĀKAṂ) 
30) Cật-lị hận-noa, cật-lị hận-noa (GṚHṆA GṚHṆA) 
31) Cật-la sa, cật-la sa (GRĀSA GRĀSA) 
32) Ma la ma la (MĀRA MĀRA) 
33) Bán nhạ, bán nhạ ( BHAÑJA BHAÑJA) 
34) Nại hạ, nại hạ (DAHA DAHA)
35) Bát tả, bát tả (PACA PACA) 
36) Hạ na, hạ na (HANA HANA) 
37) Tát lị-phộc một đà nẫm, mạt lê na (SARVA BUDDHĀNĀṂ VARDHA ) 
38) Na thiết dã, na thiết dã (DASYA DASYA) 
39) Tần nại, tần nại (CCHINDA CCHINDA) 
40) Thân nại, thân nại (BHINDA BHINDA) 
41) Mâu lỗ, mâu lỗ (MURU MURU) 
42) Vĩ nại-la bát dã, vĩ nại-la bát dã (VIDRAPĀYA VIDRAPĀYA) 43) Tát lị-phộc la xoa tang (SARVA RAKṢA MĀṂ) 
44) A nãnh thất-tả, ma nậu xa, a ma nậu xa (ANĀTHASYA MANUṢYA AMANUṢYA) 
45) Mãn đà, mãn đà (BANDHA BANDHA) 
46) Tang cổ tả, tang cổ tả (SAṂKOCA SAṂKOCA) 
47) Vĩ cổ tả, vĩ cổ tả (VIKOŚA VIKOŚA) 
48) Tắc-bố tra, tắc-bố tra (SPHAṬ SPHAṬ) 
49) Đạt lị-nhạ, đạt lị-nhạ (TARJA TARJA) 
50) Nga lị-nhạ, nga lị-nhạ (GARJA GARJA) 
51) Hạ na, hạ na (HANA HANA) 
52) Tát lị-phộc mãn đát-lam (SARVA MANTRAṂ) 
53) Tát lị-phệ lỗ mão (SARVA ĪRMA) 
54) Vĩ hạ na, vĩ hạ na (VIHANA VIHANA) 
55) Lao xoa hàm, tát bà lị la la (RAKṢA MĀṂ_ SARVA ŚARĪRA) 
56) Tát lị-phộc tát đỏa nan tả, sa hạ (SARVA SATVĀNĀṂ CA SVĀHĀ)

Đức Phật dạy rằng: Đà-la-ni này có công đức lớn. Nếu có người đội trên đỉnh đầu thì hết thảy tất cả La Sát, Tất Xá Tả quỷ.... ở trong 1000 do tuần chẳng dám xâm hại.
Lại nếu có người đang tụng Đà-la-ni này một biến thì có các Thiên Tử và quyến thuộc trú ở ngoài 1000 do tuần sẽ tác ủng hộ. 
Lại nếu có người tụng Đà-la-ni này thì hết thảy tất cả Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan Gia) với Đại ác hổ lang trùng yểm đều tự nhiếp phục chẳng dám làm hại. 
Lại nếu có người hay phát tâm Chí Thành, trong mỗi một ngày tụng Đà-la-ni này đủ 100 biến thì người này liền được thành tựu thuốc An Thiện Na, dùng thuốc bôi lên mắt sẽ nhìn thấy sự việc trong ba đời Lại nếu có người tụng Đà-la-ni này thì hay khiến cho kẻ có Tâm phẫn nộ liền sinh Tâm kính yêu. 
Lại nếu có người chí Tâm tụng  Đà-la-ni này hai Lạc Xoa (20 vạn) biến thì tất cả phiền não thảy đều tiêu diệt. Lại nếu có người tụng trì Đà-la-ni này lâu dài thì người đó liền được Túc Mệnh Trí . 
Lại nếu có người dùng Đà-la-ni này gia trì vào dầu sạch rồi xoa trên đầu, trên bụng, rốn thì nếu có bệnh về đầu, bụng với tất cả bệnh độc ác khác tùy theo chỗ xoa ắt bệnh được tiêu tan. 
Lại nếu có người lấy một hạt hồ tiêu, dùng Đà-la-ni này gia trì 21 biến cầm đến xứ La Nhạ (nơi vua chúa ngự) thì mọi nguyện cầu đều được như ý . 
Đà-la-ni này có công đức lớn. Nếu muốn thành tựu các việc như trên thì cần phải thọ trì .



LXVIII. Bảo Sinh Đà-la-ni

Nẵng mô la đát-nẵng, la thấp-di, tán nại-la, bát-la để mạn ni đá vĩ nễ-diễm, đế nhạ, cụ thế thấp-phộc la, la nhạ dã, đát tha nga đá dã, la-hạ đế, tam miệu tam bột đà dã. 
Đát nễ-dã tha: La đát-nễ, la đát-nẵng, cát la ni, la đát-nẵng, bát-la để mạn nị đế, la đát-nẵng tam đà ni, la đát-nẵng, bát-la nị, la đát-nỗ nột nga đế, sa-phộc ha.

Nếu có chúng sinh nào đối với danh hiệu Như Lai Đà-la-ni  này, thọ trì cúng dường thì đời đời người ấy được Địa Vị Chuyển Luân, thành tựu Phạm Hạnh, đủ đại Thần Thông, được mười loại Đà-la-ni. Lại được gặp hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai mà chẳng hề có hư vọng. Trải qua câu đê kiếp thường chẳng đi vào nẻo Luân Hồi, chẳng cắt đứt hạt giống Bồ Đề, chẳng mất Tâm Bồ Đề, diệt hết tất cả tội, được Báo Thân Như Lai.
Nếu có người trì tụng mãn 7 ngày thì người ấy sẽ được Thiên Nhãn thanh tịnh. Nếu người kia được nghe Đà-la-ni này qua lỗ tai thì luôn luôn ghi nhớ và quyết định được Bồ Đề. Hết thảy mọi căn lành đã tạo được ở đời quá khứ đều được hiện tiền. Nếu truyền cho một người đã gây ra tội nghiệp Vô Gián thì tội đó đều được trừ diệt và cắt đứt hẳn sự luân hồi. Người đó chẳng bị nước, lửa, trộm, cướp, xâm hại, được đầy đủ các căn, chẳng sinh mọi bệnh, chẳng bị dính mắc Quỷ Mỵ, mọi nơi yêu kính, đời sau được thọ trì Pháp vi diệu của Như Lai, cúng dường chư Phật. 
Nếu có người nghe xong mà Tâm vui vẻ, lễ bái , ca ngợi thì người ấy có Công Đức vô lượng vô biên, đời đời trong miệng tỏa ra mùi thơm vi diệu bao trùm một Do Tuần. Trên thân thể, trong mọi lỗ chân lông luôn có hào quang thường tự chiếu sáng, thường làm mọi việc thắng lợi của Như Lai, như Ngài A Nan Đà, có đủ công đức như vậy chẳng thể luận bàn.



LXIX. Liên Hoa Nhãn Đà-la-ni

Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã Nẵng ma a lị-dã bát nột-ma nễ đát-la dã , đát tha nga đá. 
Nẵng mô tát lị-phộc nễ phộc la noa vĩ sắt-ca tỉ ni, mạo địa tát đá-phộc dã, ma ha tát đát-phộc dã. 
Đát nễ-dã tha: Án, đá la đá la, cát lệ cát lệ, đổ lỗ đổ lỗ, ca la ca la, cát lệ cát lệ, câu lỗ câu lỗ, bà la bà la, tỉ lị tỉ lị, bộ lỗ bộ lỗ, nẵng dã nẵng dã, câu lỗ câu lỗ, mô khất-xoa bá giả, sa-phộc hạ. Nhập phộc la nẵng phộc tứ-nễ nễ tỉ, sa-phộc hạ. Tát lị-phộc đát tha nga đá, để sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ. Ma ma tát-lị phộc nan tả, sa phộc hạ.

Nếu có người vào mỗi buổi sáng, buổi chiều cung kính cúng dường và niệm Đà-la-ni này 108 biến. Một ngày, hai ngày cho đến 21 ngày chí Tâm trì tụng thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, cũng chẳng bị các bệnh về Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và Tâm chẳng tà loạn. 
Lại được 5 loại mắt thanh tịnh, 5 loại tai thanh tịnh, 5 loại mũi thanh tịnh, 5 loại lưỡi thanh tịnh, 5 loại ý thanh tịnh. Thân được đoan nghiêm ngay thẳng, Tâm lìa cấu nhiễm. Ở trong tất cả đời thường phát Tâm Bồ Đề cùng với các Chúng Thánh thường gặp Phật, được nghe Diệu Pháp, tiến thẳng đến Đạo Trường Bồ Đề, viên mãn Chính Giác.



LXX. Tối Thượng Thắng Phan Anh Lạc Chân Ngôn

TADYATHĀ: KARU KARU , KIRI KIRI, KURU KURU, SĀRA SĀRA , SIRI SIRI , SURU SURU _ SARVA BUDDHA AVALOKITE VARA VARA _ DHARMA-MUKHE CARA CARA _ SAṂGHA ADHIṢṬITE BHARA BHARA _ ADIKA BUDDHA KOTI BHÀSITE KSÌNÀ KSÌNÀ _ SARVA KARMA AVARAṆANI, SARVA PĀPANI, SARVA DUḤKHA, NIVĀPAṆAYA _ BHṚ ṬAL BHṚ ṬAL, DHṚ ṬAL DHṚ ṬAL, TAṬA TAṬA SPHOṬAYA _ SARVA KARMA AVARAṆA APĀYA DURGATINI SARVA SATVANĀṂCA SVĀHĀ.

Hán dịch:

Đát nễ-dã tha: Ca la ca la, chỉ lý chỉ lý, câu lỗ câu lỗ, sa la sa la, tất lý tất lý, tô lỗ tô lỗ, tát lý-phộc một đà , phộc-lộ chỉ đế, phộc la phộc la, đạt lý-ma mục khế, tả la tả la, tăng già địa sắt-xỉ đế, bà la bà la, a nễ ca một đà câu chi bà sử đế, sát noa sát noa, tát lý-phộc yết lý-ma phộc la noa nễ, tát lý-phộc bá ba nễ , tát lý-phộc nậu khư nễ hà ba nẵng dã, bộ-lý tra, độ-lý tra độ-lý tra, đát tra đát tra, đát phổ tra dã, tát lý-phộc yết lý-ma phộc la noa, bá dã, nột lý-nga đế nễ, tát lý-phộc tát đát-phộc nam tả, sa-phộc ha.

Thắng Phan Anh Lạc Đà-la-ni này là điều mà hằng hà sa chư Phật cùng chung tuyên nói. Nay Ta vì các ông lại tuyên nói. Thiện Nam Tử! Đà-la-ni này rất hiếm có, khó gặp được. Ví như khó có thể được gặp Đức Như Lai kia xuất hiện ở đời. Được gặp Đà-la-ni này còn khó hơn gấp bội Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện được nghe danh tự của Thắng Phan Anh Lạc Đà-la-ni này khởi tâm tin tưởng thọ trì, luôn luôn đọc tụng thì hết thảy tội nặng năm nghịch của người đó thảy đều được diệt hết, được thấy quả báo, được đại phú quý, đời sau sẽ sinh vào dòng tộc cao thượng. 
Nếu lại kẻ trai lành, người nữ thiện đem Công Đức thù thắng của Đà-la-ni này rộng tuyên lưu bố , vì người giải nói, hoặc khuyên người viết chép đọc tụng thời từ xa Ta đã biết cho đến Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn Phật, Yết Nặc Ca Mâu Ni Phật, Ca Diệp Phật. Như vậy hằng hà sa đẳng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác của đời quá khứ thảy đều nghe biết. Người này có được công đức vô lượng vô biên.



LXXI. Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Đà-la-ni

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Cung Chủ Nhật Nguyện Thiên Tử nói rằng: “Này Thiên Tử! Ông hãy lắng nghe! Nay Ta vì ông nói tên của Phật Bồ Tát với Đà-la-ni”
Lúc đó Cung Chủ Nhật Nguyệt Thiên Tử nhận lời dạy rồi lắng nghe. 
Liền nói tên của Phật, Bồ Tát là: 
Nẵng mô Trí Quang Như Lai 
Nẵng mô Chân Thật Như Lai 
Nẵng mô Thậm Thâm Thanh Vương Như Lai 
Nẵng mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai 
Nẵng mô Phẫn Nộ Như Lai 
Nẵng mô Bảo Nguyệt Như Lai 
Nẵng mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng Mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng mô Trì Địa Vương Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng mô Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát

Lại nói Đà-la-ni là: 

1_ Đát nễ-dã tha 
2_ Tam dã thể nan, tác sô, na na, tác sô, bát-la bà độ la di tha, ca la 
3_ Y thể tham, sa tô la na, sa tô la na 
4_ A tha sa, y tha sa 
5_ Phệ la, phệ la
6_ Ba lý noa ma tả lỗ một lý-để nễ 
7_ A phộc ni, a la ni 
8_ Ca la ba ni, ca la ba ni 
9_ Đổ lỗ đổ tế, đổ lỗ độ tế 
10_ Đổ lý-thổ lỗ độ tế 
11_ La tốn để tốn để 
12_ Bế lý bế lý 
13_ Độ lỗ, độ lỗ, độ lỗ, độ lỗ 
14_Ca la, ca la 
15_ Sa tha tô, sa tha tô 
16_ Nghệ la, nghệ la 
17_ Nghệ la ba dã, nghệ la ba dã 
18_ Hạ tô lỗ, hạ tô lỗ 
19_ Đà tô tốn độ, tốn bộ tế tha tô, a tha sa ba nễ, nhạ dã lỗ lý tha, tô lý chỉ la 
20_ Ngu lý-ma, ngu lý-ma 
21_ Ngu lý-ma bá ni, kế lỗ kế lỗ 
22_ Kế la bá ni, ca la ca lý 
23_ Lăng độ nỉ, độ lỗ nỉ 
24_ Ma hạ độ lỗ nỉ 
25_ Ca la ca la 
26_ Chỉ lý chỉ lý 
27_ Vĩ phổ tế, vĩ phổ tế 
28_ Độ tô, độ tô 
29_ Hạ tô, hạ tô 
30_ Hạ sa bá ni, sa-phộc hạ.

Khi Đức Thế Tôn nói Đà-la-ni đó xong thời Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Cung Chủ Nhật Nguyệt Thiên Tử rằng: “Này Thiên Tử! Đà-la-ni này đều được 88 câu chi chư Phật đời quá khứ cùng chung tuyên nói. Đức Như Lai Đại Từ Đại Bi vì muốn ủng hộ lợi ích cho tất cả chúng sinh, nay lại tuyên nói. 
Thiên Tử! Đà-la-ni này rất vi diệu, rất khó gặp, khó nghe ví như hoa Ưu Đàm hiếm có rất khó thấy. Lại như Đức Như Lai xuất hiện ở Thế Gian cũng rất hiếm có, rất khó gặp. Đà-la-ni này cũng lại như thế.
Này Thiên Tử! Nếu sau khi Đức Phật nhập diệt, lúc Chính Pháp diệt thời hoặc có chúng sinh gây tạo năm tội Nghịch ắt sẽ bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ. Nếu người đó được gặp thấy Đà-la-ni này, hay tịnh thân tâm, dũng mãnh bền chắc ở 21 ngày đêm, ngày ba thời đêm ba thời, tâm tâm tương tục không gián đoạn niệm Chương Cú của Đà-la-ni này, chí tâm sám hối thì nghiệp Vô Gián của người đó sẽ được diệt hết không có dư sót. 
Thiên Tử! Lại người đó dùng sức uy đức của Đà-la-ni Chương Cú này có thể khiến cho Địa Ngục bị phá vỡ thành trăm mảnh cho đến không còn dư sót. Lại khiến cho chúng sinh bị nghiệp tội trong đó cũng được giải thoát, mỗi mỗi đều sinh vào cõi Diêm Phù Đề, được thân người, lại được nghe biết. Đây là chư Phật Bồ Tát dùng sức Công Đức của Đà-la-ni cứu bạt cho Ta. Huống chi là thân nghiệp của người trì tụng ư”





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét