Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Thơ Tịnh Độ:

CÕI NHỚ
(Bồi hồi tưởng niệm Tây Phương cảnh)

Đếm sầu vương điểm lệ băng trong
Trùng dương dâng sóng ngập cõi lòng
Nến tàn, lá rụng, cay nhiều quá!
Mắt lồng nỗi nhớ cháy hư không.

Cố quốc xa vời cố quốc xa
Mình con đơn bước, bước Ta Bà
Lê chân đạp bóng câu vạn lý
Mây buồn nâng ánh nắng ngày qua.

Hồng trần con đến một ngày xanh
Khói mộng trùng sương kiếp lữ hành
Lệ đan... lệ ứa...ôi, tình chết!
Lệ tràn mưa máu dạt lều tranh.

Chiều nay bên ấp mẹ ôm con
Nát tan quặn siết bóng băng hồn
Mắt trông trong mắt trời quạnh quẻ
Thương nồng tình ấm mấy cô thôn:

Mẹ bế con đi tiếng à ơi
Mẹ hôn má nhỏ ấp môi cười
Mẹ xoa vầng tráng con yêu dấu
Mẹ xú con ăn múm từng mồi.

Mẹ cười ánh mắt một trời thương
Mong ước mai kia vạn nẻo đường
Con mẹ lớn khôn thành công với
Phú quý duyên tình đời ngát hương...

Lòng con chợt ấm phút tình nồng
Bồi hồi con nhớ... Người biết không?
Vòng tay Pháp nhũ nuôi con lớn
Cam Lồ sái biến hóa Chân Thân.

Chân Thân thể nhập Pháp Giới Thân
Chuyển vận Pháp luân thể đại đồng
Pháp luân thường chuyển vi diệu Pháp
Ứng hiện sanh thân chốn bụi trần.

Mỗi mỗi bụi trần chính Kim Thân
Mà sao trần hạt lại đau thầm?
Phải chăng Kim- Nguyện hòa Bi Thể
Hóa lệ vô trần, máu lệ băng?

Tương tư cõi nhớ Thường- Tịch- Quang
Tịnh độ duy tâm? Chứng Niết Bàn?
Di Đà cha hỡi... Cha có biết?
Nhớ người bóng ngã mấy quan san?

                                 Núi Đà Lạt 9-5-2020 
                                    Thích Long Viễn




Lời Vàng Thầy Dạy:



ĐỊA TẠNG BỒ TÁT TẤT CẢ CHÚNG SANH CÓ NÊN PHỤNG THỜ?

Khi ánh bình minh vừa ló dạng trên đỉnh núi cao, soi mặt vào biển cả mênh mông rực ánh vàng phản chiếu trên sóng gợn nhấp nhô như những lớp vàng uyển mình vương lên để khoe mình với tạo hóa. Và kia! Trên không trung bao la vô tận những lớp mây ngũ sắc kết nụ như những đóa hoa sen nghìn cánh trập trùng phóng ánh hào quang… phải chăng chư thiên đang hiện diện để đón chờ một buổi vi diệu Pháp sắp tuyên lưu?
Vâng! Cảnh vật vừa bừng tỉnh giấc mộng và mở mắt để luân chuyển theo sự sống. Lúc ấy Sư Phụ Long Viễn cũng chống gậy dạo bước thiền hành trên núi xuống, hương gió ngọt từ biển thổi về đung đưa những chiếc lá xanh làm lắc lư những giọt sương như ngọc soi bóng dáng Thầy nhẹ bước đi qua, với muôn ngàn tia nắng phản chiếu ánh hồng ngũ sắc trong tà áo nâu hình như đang nâng bước của Ngài đến với muôn loài hàm thức?
Thầy vừa bước xuống nhà khách thì ở đấy có một anh Phật tử đã chờ sẵn không biết từ lúc nào, sau khi gặp Sư Phụ chào hỏi xong thì anh ta trịnh trọng chấp tay và cất tiếng hỏi:
- Kính bạch Thầy! Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con được không ạ!
Sư Phụ uống một ngụm nước lọc rồi nhìn anh với ánh mắt từ bi, Ngài nhẹ giọng bảo:
   - Có gì thắt mắt anh cứ hỏi tự nhiên, tùy câu hỏi mà Thầy sẽ trả lời giúp anh phá nghi đúng như tâm nguyện!
   - Thưa thầy! Người tại gia có nên thờ Bồ Tát Địa Tạng không ạ?
   - Có nhân duyên gì anh lại hỏi như thế?
   -  Dạ, nhà con đang thờ Thánh tượng của Bồ Tát Đa Tng nhưng có một vị Sư ghé thăm và bảo với con rằng:
  " - Anh không nên thờ Ngài Đa Tng này!
Con ngạc nhiên hỏi: 
   - Ti sao bạch Sư? 
Sư ấy đáp rằng:
  - Vì bổn nguyện của Ngài rất lớn và Ngài chuyên độ chúng sanh ở địa ngục, nếu thờ sẽ chiêu cảm cô hồn quỷ thần đến làm nhà cửa không yên, gia đình đại nạn!
Con sợ quá nên cả đêm không ngủ, sáng nay tranh thủ lên đây bạch với Thầy, mong Thầy chỉ dạy đúng như Pháp để con có cái nhìn chánh kiến về Bồ Tát Địa Tạng ạ? "
-  Vậy anh hãy lắng nghe, suy nghĩ và khéo tác ý ghi vào trong tâm, tôi sẽ vì anh ước lược  tỏ bày đại khái về diu dng trong bổn nguyn và công đức, phước lc cũng như thần lc không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Đa Tng!
Chính vị Sư nói với anh, thật sự vị ấy không biết gì về Bồ Tát cả cũng chắc chưa từng đọc tụng hay hành trì Kinh Địa Tạng bao giờ, cho nên lời nói đầu và cuối trái ngược nhau, tự phá lẫn nhau. Nếu biết đại nguyện của Ngài lớn, thì phải biết tại sao có đại nguyện đó chứ? Đại nguyện lớn tức tâm Từ Bi và tâm Bồ Đề lớn, vậy một vị Bồ Tát với tâm Từ Bi và tâm Bồ Đề lớn, cũng tức là lòng thương yêu chúng sanh lớn, ví như người mẹ có tình thương yêu lớn với con mình thì người mẹ ấy sẵn sàng hi sinh tất cả để cứu con thoát khỏi cảnh tù đầy dù tan xương mất mạng cũng không hối tiếc; Bồ Tát Địa Tạng cũng thế lấy tâm Đại Từ Đại Bi làm thọ mạng, lấy tâm Bồ Đề để nhiếp độ tất cả chúng sanh không bỏ xót một chúng sanh nào, vậy mà còn không thờ vậy thì thờ ai? Thật là một kẻ vô văn pham phu với điên đảo tâm, điên đảo tình, điên đảo tưởng và điên đảo kiến phát sanh do vô minh nên mới dám buông lời phỉ báng chư Phật, chư Bồ Tát và phỉ báng Thánh Pháp mà tự ý cuồng ngôn nói rằng: “Vì bổn nguyện của Ngài rất lớn và Ngài chuyên độ chúng sanh ở địa ngục, nếu thờ sẽ chiêu cảm cô hồn quỷ thần đến làm nhà cửa không yên, gia đình đại nạn!” Anh phải biết Đức Phật đã từng dạy:
“Phàm con người đã sanh
Sanh với búa trong miệng
Kẻ ngu khi nói bậy
Tự chặt đứt lấy mình”
Nếu vị Sư ấy không sám hối thì tai họa ắt sẽ ập đến thân, hiện tiền phước huệ không còn, mệnh chung ắt rơi vào cõi địa ngục cực ác, tại sao? Vì phỉ báng chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư Hộ Pháp Long Thần và phỉ báng Pháp vậy! 
Anh nên khắc dạ ghi tâm lời dạy này của Đức Phật:
Từ bỏ Kinh Tạng là một tội lớn hơn nhiều
Hơn cả tội phá hết tháp ở Nam Thiệm Bộ Châu
Từ bỏ Kinh Tạng là một tội lớn hơn nhiều
Hơn cả tội giết hằng sa vị La Hán!
Cho nên nếu xuất ngôn không đúng với Chánh Pháp, không có Chánh Kiến, không đúng với Kinh Tạng thì tội nghiệp thật không thể nghĩ bàn, địa ngục Vô Gián sẽ mở cửa đồng thời cùng lúc với khi ta xuất ngôn bất chánh, cho nên Bồ Tát thì sợ Nhân còn phàm phu thì sợ Quả; chính lời nói vô minh đã tự chặt đứt lấy mình và tự đọa mình vào chốn địa ngục mà không hay biết vì Nhân nào thì Quả nấy. Thương ôi!
Cho nên anh phải biết mở đầu Kinh Địa Tạng có câu:
“Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng
Thập phương Bồ Tát cộng quy y”
Có nghĩa là ba đời chư Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) đồng tán thán, khen ngợi và đồng kính ngưỡng Ngài; mười phương chư tôn Bồ Tát đều quy y với Ngài. Thế còn không rõ ư? Bồ Tát Địa Tạng tức là vị Thầy tối cao của ba đời chư Phật vậy! Tất cả công đức lực, phước báo lực, trí huệ lực, thần lực, tam muội lực, quả báo xuất thế của Tam thừa Thánh giáo… đều từ nơi Bồ Tát mà xuất sanh. Há còn chưa liễu tri ư? Như Kinh nói:
“Thủ trung kim tích chấn khai địa ngục chi môn
Chưởng thượng minh châu quang nhiếp đại thiên chi giới”
Thật chưa từng có vị Bồ Tát nào mà oai- thần- tuệ- lực lớn như thế! Một tay Ngài nắm giữ Tích Trượng phá nát cửa địa ngục và đồng thời cứu tất cả chúng sanh vượt thoát cảnh giới địa ngục đau khổ tối tăm. Địa ngục ở đây không chỉ nói cảnh giới mà chúng sanh tạo nghiệp khi thân hoại mạng chung đọa xuống chốn này, mà còn mật ý chỉ cho chỗ tối tăm của tâm thức chúng sanh, tức là những đau khổ sầu, bi, ưu, não… những vọng tưởng điên đảo tạo thành gốc của bất thiện pháp (tham, sân, si) mà chính nó đã khiến cho hình thành nên lục thú chúng sanh, tức là sáu cõi luân hồi (trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, xúc sanh) vậy! Còn tay kia thì sao? Tức tay trái của Ngài nắm giữ một viên minh châu, viên minh châu này có gì đặt biệt? Nó đặt biệt đến nỗi hàng Thánh giả trong Tam thừa khó mà suy lường được. Vì đó cũng chính là diệu dụng độ sanh không thể nghĩ bàn của Ngài, viên minh châu này nó luôn luôn phóng hào quang chiếu sáng khắp đại thiên thế giới, nói đại thiên thế giới tức là chỉ cho tam thiên đại thiên thế giới, và nhiếp hóa tất cả chúng sanh trong khắp pháp giới này.
Một tiểu thiên thế giới = 1,000 thế giới
Một trung thiên thế giới = 1,000 thiểu thiên thế giới = 1,000 x 1,000  = 1,000,000 thế giới
Một đại thiên thế giới = 1,000 trung thiên thế giới = 1,000,000 x 1,000 = 1,000,000,000 thế giới
Tam thiên đại thiên thế giới = 3 x 1,000 x đại thiên thế giới = 3,000 x 1,000,000,000 = 3,000,000,000,000 (ba ngàn tỷ) các thế giới, xoay vần thành hoại, quốc độ mà chúng sanh ở thì gọi là một cõi Phật, như vậy riêng giải Ngân hà của chúng ta đây đã có ba nghìn tỷ mặt trời.
Minh châu của Bồ Tát có thể nhiếp thủ tất cả chúng sanh trong quốc độ này, đồng thời sáng chiếu dẫn đường cho tất cả chúng sanh phá tà mê mà quay về giác ngộ. Cho nên Thầy thường nói Bồ Tát Địa Tạng là vị Bồ Tát tiên phong cầm đèn bin soi đường và dẫn dắt tất cả chúng sanh vượt hầm hố chong gai, từ nơi u minh đen tối đến bờ giác ngộ cực lạc mà không bỏ xót bất kỳ một chúng sanh nào.
Chính thế mà Ngài mới có bổn nguyện:
“Địa ngục nếu không trống không
Ta nguyện sẽ không thành Phật
Chúng sanh nếu không độ tận
Nguyện không chứng quả Bồ Đề”
 Bổn nguyện của Ngài rộng lớn vô biên và diệu dụng độ sanh thật bất khả tư nghì. Anh còn chưa quyết nghi ư?
Lại như Kinh Địa Tạng phẩm thứ hai, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni của ta đã  an ủi ủy thác: Ông xem Ta trải qua biết bao số kiếp cần cù khó nhọc độ thoát những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa như thế. Còn những kẻ chưa được điều phục, thì phải theo nghiệp mà chịu báo ứng. Nếu họ bị đọa vào đường dữ và chịu nhiều sự thống khổ, thì Ông nên nhớ nghĩ đến Ta ở cung trời Ðao Lợi đã ân cần phó chúc, mà làm cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà đến lúc Ðức Phật Di Lặc xuất thế đều được độ thoát, xa lìa vĩnh viễn mọi điều khổ, được gặp Phật và được thọ ký." Thế thì đời mà chúng ta sống đây không phải đời của Ngài Địa Tạng ư? Cõi của chúng ta ở đây không phải cõi của Ngài ư? Thế giới chúng ta đang sống và biết há chẳng phải trong viên minh châu của Ngài ư? Tâm si mê vọng tưởng nhiệt não há chẳng phải là địa ngục ư? Thế tại sao không cầu Ngài cứu độ? Thế tại sao còn chưa chịu tôn kính và phụng thờ Ngài?
Khi được Đức Thế Tôn ủy thác như thế, Bồ Tát đã rơi lệ vì bi cảm vô cùng tận với chúng sanh và thâm diệu tâm đại bi vô hạn lượng của đức Thế Tôn, Ngài liền bạch: Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ Ðức Thế Tôn tiếp độ dắt dìu, khiến con có được thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ trí huệ rộng lớn. Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức thế giới nhiều như cát sông Hằng; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam Bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết Bàn an lạc.
Những chúng sanh nào ở trong Phật Pháp, dù chỉ làm việc lành bằng chừng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, hoặc mảy lông tơ, con đều độ thoát lần lần, làm cho họ được lợi ích lớn.
Con cúi mong Ðức Thế Tôn chớ vì những chúng sanh ác nghiệp đời sau mà sanh lòng lo lắng!" Ngài bạch cùng Ðức Phật ba lần như thế.
Thật xúc cảm vô biên khi nghe Bồ Tát rơi lệ vâng lãnh và y chỉ Thánh ngôn đại bi của Đức Đại Từ Phụ mà không mỏi nhàm dùng vô lượng phương tiện để hóa độ chúng sanh, vậy mà chúng sanh mấy ai biết? Trong đời này mấy kẻ tín tâm với Ngài?
Và đây chúng ta hãy nghe Đức Thế Tôn nói về oai đức vô biên, lực dụng không thể nghĩ bàn, biển công đức hải khôn lường, phương tiện độ sanh siêu hàm thức, phước báo và huệ giác viên dung tối thắng của Địa Tạng Bồ Tát trong phẩm thứ sáu, Như Lai tán thán:
“Ðức Phật bảo Bồ Tát Phổ Quảng: "Trong đời vị lai, như có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là tán thán, hoặc là đảnh lễ, hoặc là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Như có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào, hoặc tô vẽ hình tượng, hoặc dùng đất, đá, keo, sơn, vàng, bạc, đồng, sắt, tạc tượng Bồ Tát này, rồi cứ một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, thì người đó sẽ được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba một trăm lần, vĩnh viễn không phải đọa vào ác đạo.
Giả sử phước trời đã hết, phải sanh xuống nhân gian, cũng vẫn làm vị Quốc Vương, không hề mất sự lợi lớn."
Và Đức Phật còn dạy: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào có thể đối trước tượng Bồ Tát mà trổi các thứ kỹ nhạc, cùng ca vịnh, tán thán, cúng dường hương hoa, cho đến khuyến hóa được một người hay nhiều người; hạng người đó ở trong đời hiện tại cùng vị lai thường được trăm ngàn Quỷ Thần ngày đêm theo hộ vệ, không để cho những việc hung dữ đến tai, huống là để cho chịu các tai vạ bất ngờ!"
Thế không rõ lắm ư? Thờ phụng và cúng dường Bồ Tát sao lại nói bị quỷ thần quấy phá hay làm não hại được chứ? Người nào nói như thế không phải phỉ báng Ngài ư? Không phải phỉ báng Phật ư? Không phải phỉ báng Pháp ư…?
Như Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, có vị thiên nhân nào phước trời thọ hưởng đã hết, có Ngũ Suy Tướng hiện ra, hoặc có vị phải đọa lạc nơi chốn ác đạo; các vị thiên nhân đó, hoặc nam hoặc nữ, đương lúc tướng suy hiện ra, mà hoặc thấy được hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng hoặc nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, thì các vị thiên nhân đó được phước trời thêm lớn, hưởng nhiều sự vui sướng, vĩnh viễn không phải đọa lạc vào ba ác đạo nữa; huống chi là được thấy tượng, được nghe tên của Bồ Tát, rồi đem các thức hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, vật báu, chuỗi anh lạc... mà bố thí cúng dường, thì công đức phước lợi có được sẽ vô lượng vô biên.”
“Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.”
Bồ Tát Địa Tạng với lòng từ bi đã trãi qua vô lượng ức kiếp rộng dùng vô lượng phương tiện thù thắng để tiếp độ chúng sanh, còn chần chừ gì? Hoang man gì? Lo lắng gì? Do dự gì mà không chịu quy y với Ngài? Như Đức Thế Tôn đã khuyến hóa tất cả chúng sanh: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, muốn ra khỏi Tam Giới; những người đó thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn thức uống để cúng dường chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
Chính vì công đức của Bồ Tát Địa Tạng quá lớn nên Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: “Dầu cho các Đức Phật trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai nói công đức của Ngài Địa Tạng Bồ Tát vẫn chẳng thể nói hết”
 Và như Kiên Lao Địa Thần Bồ Tát cũng từng bạch Đức Phật, nếu chúng sanh thờ phụng Bồ Tát Địa Tạng đúng như Pháp sẽ được mười điều lợi ích:
Một là đất đai mầu mỡ;
Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi;
Ba là người đã mất được sanh thiên;
Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ;
Năm là mọi mong cầu đều được toại ý;
Sáu là không có tai họa về nước và lửa;
Bảy là trừ sạch việc hư hao;
Tám là dứt hẳn ác mộng;
Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ;
Mười là thường gặp nhân Thánh."
Chỉ cần nghe qua danh hiệu của Ngài ngay lập tức có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Giác quyết chẳng còn thoái chuyển, há chẳng phải công đức, lực dụng của Ngài siêu việt tình phàm và Thánh trí trong Tam thừa ư? Như Đức Phật đã bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta Bà. Nếu hàng trời hoặc rồng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục Đạo nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được gặp Phật thọ ký cho" Chính vì công đức của Bồ Tát Địa Tạng quá lớn nên Bồ Tát Quán Thế Âm hết lời tán thán và kính ngưỡng không cùng tận, tại sao? Vì diệu hạnh độ sanh  của Ngài vô cùng cực, tuệ giác vô biên, thần lực không thể nghĩ bàn, bổn thệ mênh mông, bổn nguyện rất rộng sâu, cho nên khi ở cung Trời Đao Lợi Đức Thế Tôn mới chọn Ngài để thuyết Pháp, vì chỉ có Ngài mới đủ sức chuyển mẹ của Đức Phật từ cõi trời về cảnh giới của chư Phật để chấm dứt sanh tử. Chỉ cần cung kính, đảnh lễ, tán thán hay trì niệm danh hiệu của Ngài thì tăng thêm phước trời, bệnh khổ không còn, tiên vong được giải thoát, nguyện lớn sớm thành, không thối thất Bồ Đề, được đại trí huệ, tai nạn tiêu trừ, hiểm nguy vượt thoát, nghiệp chướng được tịnh hóa, báo chướng tiêu vong, kiến chướng không còn, phiền não chướng tận diệt, ma chướng lập tức tồi hoại, chư Phật đến ủng hộ, bổn lực được tăng trưởng, việc đời trước đều rõ biết, các hàng trời, rồng quỷ thần thường hộ niệm, quả lành ngày càng tăng trưởng, đồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ, không bị hại về trộm cướp, người khác thấy liền sanh lòng cung kính, đời sau thân gái sẽ chuyển thành thân trai, đời sau sẽ làm con gái các hàng vương giả, đại thần; thân tướng xinh đẹp, tùy ý tái sanh về cõi Phật hay cõi trời, hoặc làm các bậc vua chúa, tùy tâm mong cầu đều được như ý, quyến thuộc được an vui, đến đi không trở ngại, đêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ, các bậc Thánh ngợi khen, giàu lòng từ mẫn, rốt ráo thành Phật... Thật là tuyệt đãi viên dung nên mười phương chư vị Bồ Tát không vị nào mà không quy y với Ngài! Tôi dẫu dùng tướng lưỡi rộng dài vô lượng trãi qua vô biên kiếp cũng không sao nói hết về công đức và oai- thần- tuệ lực của Ngài.
Chuẩn xác như thế nên Đức Phật mới bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Bồ Tát Địa Tạng có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy, được nghe của chư chúng sanh, thì trong cả trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết được”
Ở đây Thầy chỉ lược nói vài ý khái quát về oai lực, thần lực, phước lực, công đức lực và điểm vài ý về diệu dụng cũng như phương tiện độ sanh của Bồ Tát thông qua Đại nguyện Bồ Đề Tâm của Ngài mà thôi. Nếu anh muốn biết rõ hãy nên trì tụng trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, anh sẽ thấy rõ hơn, hãy gạt bỏ tất cả tư tưởng sai lầm và sám hối những ý tưởng lệch lạc về Bồ Tát, đừng để ân hận, đừng để phải hối tiết về sau, đừng lao mình vào hố thẳm của tà kiến, đừng hủy hoại công đức và trí tuệ của mình, hãy y chỉ vào Kinh và Luật mà Thế Tôn đã tuyên thuyết, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, chớ có buông lung, hãy biết rằng:
“Ma quỷ thường đi giữa thế gian
Thiên hình giả dạng hãy coi chừng
Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng
Công hạnh tan hoang nếu chúng gần”
Đấy là bốn câu kệ mà Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết nhắc nhở tất cả chúng ta đang sống trong đời mạt pháp này, được nói đến trong Tiểu Bộ Kinh.
Cẩn trọng!
Cẩn trọng!
...........
(Đệ tử Trí Khải kính chép lại lời vàng Thầy dạy, kính nguyện giáo Pháp trường lưu, Địa Tạng Vương Bồ Tát ứng thân phổ hóa tất cả chúng sanh!)









Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

Vườn Thơ Phật Giáo:

Đức Padmasambhava (*)
(Kính dâng Đức Liên Hoa Sanh)

Liên Hoa hóa sanh bậc Đại Hiền
Đạo Sư pháp giới Ngữ Thông Tiên
Hàng ma dạy đạo Tam thân(**) chứng
Hữu cầu diệu ứng vạn thế tuyên.

                             Thích Long Viễn
                        Núi Đà Lạt 9- 5- 2020










































Chú thích:

(*)Đức Padmasambhava dịch nghĩa là ĐứcLiên Hoa Sanh, có nghĩa là "sinh ra từ hoa sen". Ông được sinh ra ở tuổi lên tám từ một hoa sen ở hồ Dhanakosha, Uddiyana và được vua Uddiyana chấp nhận. Khi trưởng thành, ông đã bị đẩy ra khỏi Uddiyana bởi ma quỷ đang cư ngụ tại đó.
Cuối cùng, Ông đến Bodh Gaya, nơi mà  Đức Phật đã giác ngộ. Ông học tại Đại học Phật giáo lớn ở Nalanda ở Ấn Độ, và được nhiều giáo viên tâm linh hướng dẫn nhiệt tình.
Ông đi đến Thung lũng Cima và trở thành đệ tử của một vị sư vĩ đại có tên là Sri Simha, và nhận được các quyền năng về giáo lý tantric. Sau đó, ông đi đến Thung lũng Kathmandu của Nepal, nơi ông sống trong một hang động với người học trò đầu tiên, Mandarava (còn gọi là Sukhavati). Hai người đã nhận được các văn bản về Vajrakilaya, một thực hành tantric quan trọng. Thông qua Vajrakilaya, Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và Mandarava nhận ra sự giác ngộ tuyệt vời.
Đức Liên Hoa Sanh trở thành một bậc thầy nổi tiếng. Trong nhiều dịp, ông đã thực hiện những phép lạ để kiểm soát quỷ dữ mang lại bình yên cho dân làng. Khả năng này cuối cùng đã đưa ông đến Tây Tạng để làm sạch tu viện của Hoàng đế Trisong Detsen.
Đức Liên Hoa Sanh trở về Nepal, nhưng bảy năm sau ông trở lại Tây Tạng. Hoàng đế Trisong Detsen rất vui mừng khi thấy ông, vì ông đã mang lại sự giàu có cho Tây Tạng. Vị thầy tantric từ chối những món quà, nhưng ông đã chấp nhận một người phụ nữ từ hậu cung của Hoàng đế, công chúa Yeshe Tsogyal, người phối ngẫu thứ hai trong cuộc đời ông.
Cùng với Yeshe Tsogyal, Đức Liên Hoa Sanh đã giấu một số văn bản thần bí (terma) ở Tây Tạng và các nơi khác. Terma được tìm thấy khi các môn đồ đã sẵn sàng để hiểu chúng. Một trong những mật chú quan trọng của Đức Liên Hoa Sanh đã được tìm thấy là Om Ah Hum Vajra Guru Padma Siddhi Hum.
Yeshe Tsogyal trở thành người thừa kế pháp của Đức Liên Hoa Sanh, và bà truyền những giáo lý Dzogchen cho các môn đệ của mình. Đức Liên Hoa Sanh có ba người phối ngẫu khác và năm phụ nữ được gọi là Ngũ Huân Ðạo Dakinis.

(**) Tam thân:
Tam thân là một thuật ngữ được dùng trong Phật giáo đại thừa chỉ ba loại thân của một vị Phật.Tam thân gồm:


  1. Pháp thân là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới, là , là Chân như tính Không, Phật tính, là Như Lai tạng...Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng Già, kinh Hoa Nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân.
  2. Báo thân cũng được dịch là Thụ dụng thân, "thân của sự thụ hưởng công đức": chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang 32 và 80 vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ
  3. Ứng thân, cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hóa thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi với mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân cũng trãi sanh lão bệnh tử và cũng bị chi phối bởi định luật vô thường. 
Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại chúng bộ và về sau được Đại thừa tiếp nhận. 
Trong Phật giáo Tây Tạng người ta xem Thân, khẩu, ý của một vị Đạo sư(guru) đồng nghĩa với ba thân nói trên.Trong Kim cương thừa, quan điểm Ba thân biểu thị các tầng cấp khác nhau của kinh nghiệm giác ngộ. Pháp thân là tính Không, là Chân như tuyệt đối, bao trùm mọi sự, tự nó là Giác ngộ. Báo thân và Ứng thân là các thể có sắc tướng, được xem là phương tiện nhằm đạt tới kinh nghiệm tuệ giác tuyệt đối. Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem thân, khẩu, ý của một vị đạo sư chính là Ba thân, được biểu tượng bằng thần chú OṂ-AH-HUNG (gọi theo tiếng Tây Tạng). Sức mạnh toàn năng của Pháp thân được thể hiện ở đây bằng Phổ Hiền (sa. samantabhadra). Các giáo pháp Đại thủ ấn và Đại cứu cánh giúp hành giả đạt được kinh nghiệm về tâm thức vô tận của Pháp thân. Báo thân được xem là một dạng của "thân giáo hoá." Các Báo thân xuất hiện dưới dạng Ngũ Như Lai và được xem là phương tiện để tiếp cận với Chân như tuyệt đối. Báo thân xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, tịch tĩnh (sa. śānta) hay phẫn nộ (sa. krodha), có khi được trình bày với các vị Thần thể (bo. yidam) hay Hộ pháp (sa. dharmapāla).

Ứng thân là một dạng "thân giáo hoá" với nhân trạng. Trong Kim cương thừa, Ứng thân hay được hiểu là các vị Bồ Tát tái sinh. Ba thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập mà là biểu hiện của một đơn vị duy nhất, thỉnh thoảng được miêu tả bằng thân thứ tư là Tự tính (Tự nhiên) thân (sa. svābhāvikakāya). Trong một vài Tantra, thân thứ tư này được gọi là Đại lạc thân (sa. mahāsukhakāya).



















Thứ Tư, 5 tháng 2, 2020

Lời Vàng Thầy Dạy:

 CHỨNG THẦN THÔNG & TRÍ TUỆ CỦA PHẬT TỨC THỜI

Một hành giả cao cấp trong Kim Cang Thừa hỏi tôi:
- Làm sao để chứng ngộ thần thông và tuệ giác siêu việt của một vị Phật tức thời?
Tôi đáp:
- Này hành giả của Pháp! Hãy hợp nhất giữa Guru, Yidam và Dakini!

                                                    ___ Thích Long Viễn___

Hồng Tuyến kính lưu lại Pháp ngữ của Sư Phụ Thích Long Viễn, nguyện cầu những ai hữu duyên với Kim Cang Thừa đọc qua lời khai thị trên có thể thành tựu thần thông và trí tuệ của một vị Phật!



Thứ Hai, 3 tháng 2, 2020

Lời Vàng Thầy Dạy:

 ____THÀNH PHẬT TỨC THỜI

Có một hành giả cấp cao của Kim Cương Thừa hỏi tôi:

- Làm sao để chứng ngộ Tam Mật Tương Ưng Tức Thân Thành Phật khi đời là vô thường, cái chết của tôi có thể đến trước ngày mai?
Tôi đáp:
- Hỡi này hành giả của Pháp, hãy buông bỏ tất cả khái niệm tạo tác!

                                              ___ Thích Long Viễn___

 Đệ tử Hồng Tuyến kính lưu Pháp ngữ Sư Phụ Thích Long Viễn, nguyện cầu Chánh Pháp trường lưu, Kim Cương Thừa phổ lợi nhân thiên!







Lời Vàng Thầy Dạy:

 ___LÀM SAO LÀM CHỦ TÂM THỨC CỦA BẠN?

Có người hỏi tôi:
- Làm sao làm chủ vọng tâm và niệm khởi?
Tôi đáp rằng:
- Những vọng tâm, những niệm khởi của bạn nhiều hơn những hạt bụi dưới ánh mặt trời, bạn không thể khóa nó lại trong một chiếc hộp sắt, hay dù hàng vạn quân binh với vũ khí sắc bén cũng không thể ngăn cản được chúng.  Nhưng bạn có biết một sự thật này chăng? Tôi một hành giả sẽ tiết lộ cho bạn biết một bí mật này: Bạn hãy nhìn vào nó, tự chính những vọng tâm và niệm khởi ấy chúng vốn là TÁNH KHÔNG!

                                                       __ Thích Long Viễn__

(Hồng Tuyến kính lưu Pháp ngữ Sư Phụ Long Viễn)



Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2020

Lời Vàng Thầy Dạy:

 __AI LÀ CHỦ NHÂN CỦA BẠN?

Bạn luôn cho rằng gia đình, tài sản, vợ con... là của bạn, bạn tranh đấu thật nhiều, bạn tạo nhiều ác nghiệp vì những thứ này, thậm chí bạn có thể hi sinh tất cả để bảo tồn, duy trì và làm cho nó thật tốt đẹp theo đúng tâm ý của bạn. Nhưng có một sự thật mà bạn đã nghĩ đến chưa, đó là khi tử thần mang cái chết đến, tất cả vợ con, gia đình, tài sản...thậm chí cả tấm thân này bạn cũng bỏ lại, nhưng những nghiệp bạn đã tạo sẽ đồng hành cùng bạn tiếp nối luân hồi qua những kiếp sau, than ôi! Sao bạn không nghĩ đến những điều này? Hãy làm cái gì đó cho mình, hãy giúp đỡ mọi người, hãy cố gắng tu tập, hãy đối diện thật tế! Vì chính bạn là chủ nhân của nghiệp, đừng để nghiệp trói buộc mình, giờ là lúc bạn phải quyết định đi lên hay đi xuống?
                                                   __Thích Long Viễn__




Lời Vàng Thầy Dạy:

 __ THÂN NÀY CỦA AI?__

Có bao giờ bạn suy tư tự hỏi: Thân này có phải của mình không? Chắc chắn tâm bạn sẽ đáp rằng: Vâng! Nó là tôi, nó là của tôi, tôi sở hữu nó! Nhưng nếu thân này nó là bạn, là của bạn, bạn sở hữu nó? Thế thì bạn làm được gì với nó? Bạn bảo nó không được già, không được bệnh, không được chết, nó có nghe lời bạn bảo không? Nếu nó đã không nghe lời bạn, sao lại bảo rằng: Nó là bạn? Nó là của bạn? Bạn sở hữu nó? Hãy nhìn vào sự thật này, tâm bạn sẽ được tự tại!
                                                      __Thích Long Viễn__



Lời Vàng Thầy Dạy:

 BẠN LÀ AI?

Có bao giờ bạn nghiêm túc tự hỏi mình: Bạn là ai? Bạn từ đâu đến? Bạn đến đây để làm gì? Bạn có bị già, bệnh, khổ não và chết không? Sau khi chết bạn sẽ đi về đâu? 
                                                                     --- Long Viễn---