Thứ Năm, 15 tháng 4, 2021

 Diệu Nghĩa Đà-la-ni

Kho Chân Ngôn Bí Mật Thông Dụng

(Phần XIII)


LXXII. Đại Lực Vương Đà-la-ni

Namaḥ sarva tathāgatebhyaḥ arhatebhyaḥ 
Oṃ_ Kumāraka-rūpiṇa viśuddha-saṃbhava_ Ākarṣa ākarṣa, lahu lahu, bhrūṃ bhrūṃ, hūṃ hūṃ, jina-jik, maṃjuśrīya tārāya māṃ_ Sarva duḥkhebhyaḥ phaṭ phaṭ, śamaya śamaya, amitodbhava udbhava pāpa me nāśaya_ svāhā.

Hán dịch:

Nam ma tát bà đát tha yết đê phiếu, a la hát phiếu. 
Án, câu ma la hổ lô bỉ na, tỳ du hòa, tam bà bà, a yết xa a yết xa, lạc hô lạc hô, bột lãm bột lãm, hàm hàm, thị na thị, mạn thù thất lợi dã, tô thất lý dã, đa lại dã mạn, tát bà độc khê phiếu phát phát, thiêm ma dã thiêm ma dã, a nhĩ đô ốt bà bồ ốt bà bà, ba bả mê na thế dã, sa ha.

Đây tức là Tối Thắng Căn Bản Chú Tạng Tâm Vương Thần Chú của ông, hay trừ tất cả ách nạn khổ não, thảy đều tiêu trừ các tội chướng ác, sống lâu không có bệnh tật, vô cùng giàu có an vui, thông thạo ngôn từ, mọi người yêu kính. Cũng hay thông lợi tất cả Chú Vương.
Nếu hành giả thọ trì Chú Vương này thì hoặc Trời, hoặc Người, hoặc nam, hoặc nữ, tại gia, xuất gia, các loại hữu tình chẳng thể bị khinh khi phỉ báng, loài Ma chẳng được dịp thuận tiện gây hại, Oán chẳng thể hại, chất độc chẳng thể gây thương tật. Tất cả chướng ngại, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) đều tự lui tan. Đức Phật dạy: Người thọ trì ấy nên khởi Tâm này: “Chư Phật Thế Tôn có Pháp khó luận bàn, chỉ Phật cùng Phật mới hay chứng biết. Nay con nào dám tự ý sinh phỉ báng!”



LXXIII. Bạt Tế Khổ Nạn Chân Ngôn

Chân Ngôn này Bất Động Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác vì muốn lợi lạc cho các Hữu Tình nên tuyên nói:

GAGANI GAGANI_ RUCANI RUCANI_ DURUṬANI DURUṬANI_TRAṢANI-TRAṢANI_PRATIHĀTANI PRATIHĀTANI_ SARVA KARMA TARU PRAYAKṢOBHYATU_ SVĀHĀ.

Hán dịch:

Yết yết ni, yết yết ni, lỗ chiết ni, lỗ chiết ni, đốt lỗ trách ni, đốt lỗ trách ni, đát la tát ni, đát la tát ni, bát lạt đế hát na, bát lạt đế hát na, tát phộc yết mạc bát lam bát la bát mê, sa ha.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện chí thành kính lễ Đức Bất Động Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, thọ trì Chú này thì trước kia đã gây tạo tội: Năm nghiệp Vô Gián, bốn nặng, mười ác, nói xấu các Hiền Thánh, chê bai Chính Pháp thảy đều trừ diệt. Lúc sắp chết thời Bất Động Phật cùng với các Bồ Tát đi đến hiện ra trước mặt , khen ngợi ủy dụ khiến cho kẻ ấy vui vẻ. Lại nói rằng: “Nay đến nghinh đón. Ngươi tùy theo Ta đi đến nước Phật”. Người ấy chết rồi quyết định vãng sinh về cõi Phật thanh tịnh của Bất Động Như Lai (Akṣobhya-tathāgata).



LXXIV. Vô Úy Đà-la-ni

Đà-la-ni này hay giúp cho chúng sinh chận đứng và trừ bỏ các nạn. Nếu có người được nghe và thọ trì thì người đó sẽ được Công Đức vô lượng vô biên. Thế Tôn thuyết Chân Ngôn:

1 ) Án_ Na mạc a lị-dã phộc lộ cát đế thuyết la dã 
2 ) Mạo địa tát đỏa dã 
3 ) Ma hạ tát đỏa dã 
4 ) Ma hạ ca lỗ ni ca dã 
5 ) Đát nãnh tha: Án_ Mục khất-đế 
6 ) Tô mục khất-đế 
7 ) Thế na nễ 
8 ) Vĩ thế na nễ 
9 ) Nễ lị-ma lệ 
10 ) Mãng nga lê 
11 ) Tô mãng nga lê 
12 ) Tô mục khế 
13 ) Vĩ mục khế 
14 ) Tát lị-phộc bạt dã, vĩ mô xoa ni 
15 ) Tát lị-phộc bạt dụ, bát nại-la phệ tỳ-dược, vĩ mô xoa ni 
16 ) La nhạ bạt dựng 
17 ) Tưu la bạt dựng 
18 ) Ma la noa bạt dựng 
19 ) A tất-lị dã bạt dựng 
20 ) Thiết tát-đát-la bạt dựng 
21 ) A ngật-nễ bạt dựng 
22 ) Ô na ca bạt dựng 
23 ) Vĩ sa bạt dựng 
24 ) Ba la tác khất-la bạt dựng 
25 ) Tát nãnh bạt dựng 
26 ) Thiết đốt-lỗ bạt dựng 
27 ) A thiết nễ bạt dựng 
28 ) Tái na mạt đình nga đô phộc 
29 ) Tưu la mạt đình nga đô phộc 
30 ) Tinh hạ mạt đình nga đô phộc 
31 ) Mê khiệt-la mạt đình nga đô phộc 
32 ) Dược xoa mạt đình nga đô phộc 
33 ) Nại-vĩ ba mạt đình nga đô phộc 
34 ) Tán noa mạt đình nga đô phộc 
35 ) Khất lị sắt-noa tát lị-ba mạt đình nga đô phộc
36 ) A tả ca la mạt đình nga đô phộc 
37 ) Hát tất-để mạt đình nga đô phộc 
38 ) Tam mẫu nại-la mạt đình nga đô phộc 
39 ) Ca la bá thiết mạt đình nga đô phộc 
40 ) Nễ nga noa mãn đà đô phộc 
41 ) Ca sắt-tra mãn đà đô phộc 
42 ) Tạt lị-ma mãn đà đô phộc 
43 ) Vĩ sa khất-la mật đô phộc 
44 ) Nạp lị-tích xoa đô phộc 
45 ) Nễ nga noa mãn đà đô phộc 
46 ) Ba la thiết sa-đát-la đô phộc 
47 ) Tát lị-phộc nãnh nãi phộc bạt duệ số 
48 ) Tát lị-vu bát nại-la vi số một tiết đế 
49 ) Tát lị-phộc bạt dã một tiết đế 
50 ) Lâu xoa lâu xoa , ma ma, tát lị-phộc tát đỏa nẫm 
51 ) A dụ la lỗ nghê 
52 ) Thất-lị dựng phộc lị-đà dã 
53 ) A lị-dã phộc lộ cát đế thuyết la tả 
54 ) Hát đế, vĩ hát đế 
55 ) Hát lệ, vĩ hát lệ 
56 ) Tát lị-vi bát-la đà lị-thể ca mô tả nỗ 
57 ) Mô xoa ni 
58 ) Vĩ lị-dã. Án, na mô, sa hạ.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nghe Đà-la-ni này, phát Tâm chí thành, cung tín cúng dường, đọc tụng, thọ trì. Hoặc tự tay viết hoặc nhờ người viết. Lại vì kẻ khác diễn nói lưu bố thì người đó chẳng bị nạn vua chúa, nạn nước lửa, nạn đao binh, nạn oán tặc làm hại gây thương tật. Lại cũng chẳng bị nạn Dạ Xoa, nạn cấm phộc, nạn sấm sét mưa đá, nạn sét đánh, nạn chìm đắm nổi trôi trong biển lớn, nạn rắn độc cắn, nạn sư tử, sói, voi, nạn ác thú, cọp mạnh, nạn đói khát bệnh tật. 
Như vậy, chẳng bị các nạn gây hại cho đến thảy đều giải thoát các sự sợ hãi.



LXXV.  Bảo Đái Đại Minh Đà-la-ni

1_ Kiệt nễ ngật-la 
2_ Kiệt na bát để 
3_ Cồ di ngật-la 
4_ Cồ ma bát để 
5_ Bát lý ca 
6_ Kiệt lý ni 
7_ Kiệt la bát để 
8_ Sa la bát để 
9_ Đạt na bát để 
10_ Tô la bát để 
11_ A lê ba 
12_ A lê ba bát để 
13_ Ma bát để 
14_ A bát để
15_ Mạt hổ bát để 
16_ Hổ la 
17_ Hứ lê 
18_ Hổ lô 
19_ Để lê 
20_ Hứ lê 
21_ Tức trí 
22_ Lê bát-đa 
23_ Trú tra tra phệ 
24_ Án 
25_ Tam vĩ 
26_ Ma vĩ tát lý 
27_ Ma hạ hứ lê 
28_ Hổ hổ 
29_ Tam mãn đa tát tát lý 
30_ A tam mãn đa, tát la bát lê 
31_ Kha tát lý 
32_ A phộc lý-đa 
33_ Ma hạ phộc lý-đa 
34_ Kiệt nễ 
35_ Di kha lê .

Đức Phật dạy: "Này A Nan! Nay Ta tuyên nói Bảo Đái Đại Minh có công đức lớn. Nếu có người trì Minh đó thì tuỳ theo các việc mong cầu đều được tròn đủ. Hết thảy chúng Trì Minh Thiên, chúng Bộ Đa, chúng Phệ Đa Noa, chúng Đại Lực Thiên, các chúng Thần Thông Tinh Tiến Tiên... chẳng thể gây chướng ngại cho người trì Minh.
A Nan nên biết, Bảo Đái Đại Minh này là điều mà chư Phật Thế Tôn cùng nhau tuyên nói, rộng vì tất cả chúng sinh, lợi ích an vui cho đến ở tất cả nơi chốn đều âm thầm làm ủng hộ. 
Này A Nan! Hết thảy người đại ác khó đều nhiếp, loài có uy quang, loài có nghiệp ác trong Đại Địa, hoặc phương hoặc góc cho đến tất cả nơi chốn...nghe Bảo Đái Đại Minh đó thời đều kinh sợ. Lại Đại Minh này, trong khoảng chu ni mười do tuần hay vì tất cả chúng sinh mà làm ủng hộ, cứu các việc khó, nhiếp trì hộ niệm khiến các chúng sinh ngưng dứt tai nạn được an vui, chẳng bị gậy đánh đập, chẳng bị đao gây thương tích, chẳng vị trúng độc, tất cả ác độc tự nhiên tiêu diệt, bạn ác xa lìa, tất cả loài ác làm việc cấm buộc tự nhiên giải thoát".



LXXVI. Trang Nghiêm Vương Đại Đà-la-ni

NAMAḤ SARVA TATHĀGATĀNĀṂ 
TADYATHĀ: BUDDHE SUBUDDHE _ LOKA VILOKE _ LOKA-VATI KRĀṂTI _ SARVA-AVALOKENI _ SARVA-TATHĀGATA ADHIṢṬITE _ SARVA ĀŚĀ-PARIPŪRAṆE _ JYATINA-DHARE _ NARADEVA-PŪJITE _ TATHĀGATA-JÑĀNA DADE _ TATHĀGATA ADHIṢṬANENA _ SARVALOKA-MASUKHI-BHAVATU _ SARVA-KARMA PRATĪCCHAYA _ MAMA AMOGASYA (Tự xưng tên mình) _ SARVA-SATVĀNĀṂCA RAKṢA BHAVATU _ TATHĀGATA ADHIṢṬANENA SVĀHĀ.

Hán dịch:

1_ Nam mô tát bà đát tha yết đa nam 
2_ Đãn điệt tha 
3_ Bột thê 
4_ Tô bột thê 
5_ Lô ca tỳ lô kế 
6_ Lộ ca phạt đế yết lan đế 
7_ Tát đỏa a phạt lô yết nê 
8_ Tát bà đát tha yết đa, a đề sắt xỉ đế 
9_ Tát bà a xa bát lợi bô lợi nê 
10_ Tụ đính đạt lệ 
11_ Nại la đế bà bố thị đế 
12_ Đát tha yết đa thận nhược na đạt thê 
13_ Đát tha yết đa , a đề sắt xá nê na 
14_ Tát bà lô ca tốc xí bà bạt đổ 
15_ Tát bà yết ma bát lợi sai gia dã 
16_ Ma Ma, a mộc yết tả (tự xưng tên mình)
17_ Tát bà tát đỏa nan giả 
18_ Hạt lạt xoa, bà bạt đồ 
19_ Đát tha yết đa, a đề sắt xá nê na 
20_ Sa ha (bên miệng tác chữ đều có thể búng ở đường lưỡi).

Thần Chú này là điều mà ba vạn Như Lai đã tuyên nói và cùng nhau gia hộ. Chân Ngôn này lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến cho được an vui, thường làm ủng hộ, trừ bệnh khổ ấy, sinh các cõi nước của Chư Phật.
Chân Ngôn này thần diệu vô cùng có thể trừ mọi bệnh khổ, tiêu diệt Triền Cái , đầy đủ ước nguyện, thành tựu căn lành, dung nhan đoan chính, tài bảo tràn đầy. Quốc Vương, Đại Thần , các loài chúng sinh nhìn thấy đều vui vẻ. Niệm Tuệ Thần Thông không có gì không tròn đũ. Nơi Phật Pháp Tăng có được niềm tin chẳng hoại. Thọ mệnh, sắc đẹp, sức mạnh có uy thế lớn. Không bị khổ đau vì thương yêu mà phải chia lìa hoặc ghét nhau mà luôn gặp gỡ.
Nếu có tội thuộc nhóm Vô Gián với Nghiệp Chướng thảy đều được tiêu diệt. Chư Thiên vệ hộ. Khi mệnh chung thời được thấy chư Phật Bồ Tát, tâm chẳng thác loạn ắt được vãng sinh về quốc thổ Cực Lạc, Đức Phật thọ ký cho người này được làm Phật.
Nếu Kinh Chú này ở chỗ nào thì nơi đó an lành, người thọ trì viên mãn mong cầu, luôn được giàu vui, tiêu trừ nghiệp ác, cũng không bị chết đột ngột với các mộng ác, không có bệnh khổ, chiến đấu thường thắng, thọ mệnh dài lâu, đầy đủ sắc đẹp với sức mạnh, có uy thế lớn. Tất cả Thế Gian, Người với hàng Trời Rồng, các Quỷ Thần đều tùy ý chuyển. Chẳng gặp tai nạn về nước, lửa, ác độc cho đến do trì sức của Thần Chú này cho nên thường được sự Thọ Ký của chư Phật.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện được nghe Thần Chú như vậy rồi thọ trì đọc tụng. Hoặc tự mình viết hoặc dạy người viết, cung kính cúng dường thì kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều được Công Đức đúng như đã nói vậy!



LXXVII. Bách Thiên Ấn Đà-la-ni

Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật ở thành Vương Xá cùng với chúng Đại Tỳ Khưu và chúng Đại Bồ Tát đến dự. 
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Khưu: “Có Đà-la-ni tên là Bách Thiên Ấn. Các ông cần nên thọ trì. Ấy là Quy mệnh Diện Mạo Quảng Đại Đỉnh Xuất Chân Kim Quang Minh Tràng Như Lai. Quy mệnh Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác” 
Liền nói Căn Bản Đà La Ni là: 
1_ Đát điệt tha: Án 
2_ Bộ địa, bộ địa 
3_ Tát bà đát tha yết đa, cù chiết la 
4_ Đà la, đà la 
5_ Ha la, ha la 
6_ Bạt ha la, bạt ha la 
7_ Ma ha bồ đề chất đa 
8_ Chú lỗ, chú lỗ 
9_ Thiết đa la thấp di san chiêu địa đê 
10_ Cù ninh, cù na bạt đê 
11_ Tát bà đát tha yết đa, át địa sử tha na, a tỳ sắt đê 
12_ Bộ đà cù na, a bà bà tây 
13_ Nhĩ lễ, nhĩ lễ 
14_ Già già na đát lê, tát bà đát tha yết đa, a địa sử nhĩ đê , nạp bà sa đát lê 
15_ Thiểm ma, thiểm ma, bạt thiểm ma, bạt thiểm ma 
16_ Tát bà bá ba, bạt thiểm ma ninh 
17_ Tát bà bá ba, tỳ thú thiên đạt ninh 
18_ Hổ lô, hổ lô 
19_ Bồ đề mạt già, tam bát la sắt xỉ đê 
20_ Tát bà đát tha yết đa , bát la để sắt xỉ đa, thú đệ, sa bà ha.

Đây là Căn Bản Đà-la-ni :
Án_ Tát bà đát tha yết đa, tỳ bà chỉ đê_ Xã gia, xã gia, sa bà ha.
Phạn ngữ Chú: 
OṂ _ SARVA TATHĀGATA AVALOKITE _ JAYA JAYA _ SVĀHĀ

Đây là Đà-la-ni Tâm Chú:
Án_ Hổ lô, hổ lô_ Xã gia mục khư, sa bà ha.
Phạn ngữ Chú:
OM _ HULU HULU _ JAYA MUKHE _ SVĀHĀ

Đức Phật dạy: "Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di với nhóm người Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân Tịnh Tín hay tạo một cái Tháp (Stūpa), viết chép Bách Thiên Ấn Đà-la-ni này rồi đặt trong cái tháp đó thì công đức tạo một cái tháp này như công đức tạo một trăm ngàn cái tháp , không có khác”.



LXXVIII. Đại Thất Bảo Đà-la-ni

Tả địa dã: Thải đàm, để xà, luật đề, ba la nhược, ba la thức xoa cừu noa tỷ trà.

Phạn ngữ Chú:

TADYATHĀ: SIDDHAṂ TEJA ŚUDDHE PRAJÑA PRAMOKṢA GUṆA VĪRYA.


Nếu có người đọc tụng tu hành Đà-la-ni Chú này cho đến hết đời thì tất cả oán cừu đều có thể khiến cho vui vẻ. Lửa chẳng thể đốt, Đao chẳng thể gây thương tích, nước chẳng thể cuốn trôi, không bị Phương Đạo Quỷ Mị bắt giữ kể cả hàng Trời, Rồng, A Tu La, Càn Đà Bà cho đến Người, phi nhân. 
Đức Phật dạy:
"A Nan! Thất Bảo Chú này. Khi vào trong nước lửa, nơi có oán tặc hoặc ăn phải chất độc, bị phương đạo độc thì nên niệm Chú này. Nếu bị sợ hãi, lông tóc dựng đứng...đều được giải thoát 
Dùng uy đức của Tỳ Bà Thi Phật, thần lực của Thi Khí, Trí Tuệ của Tỳ Thi Bà (? Tỳ Xá Phù), Phật lực của Câu Lưu Tôn, Giới của Ca Na Mâu Ni, Công Đức của Ca Diếp, Tinh tiến của Thích Ca Mâu Ni khiến cho tất cả chúng sinh đều dứt trừ sự sợ hãu khiến được tốt lành".



LXXIX. Bí Mật Bát Danh Đà-la-ni

Kinh Bí Mật Bát Danh Đà-la-ni có dạy:
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát Đại Bí Mật Chủ rằng: “Như Đại Bộ của ông có hiệu là Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya), là Pháp bí mật thâm sâu tối thắng trong Tạng Trì Minh. Chúng sinh có nhận thức cạn cợt, căn khí hẹp hòi kém cỏi đối với nghĩa bí mật khó tin khó giải. Trước kia ông đã nói Pháp khó tín giải. Vì ông chẳng y theo Pháp, chẳng bạch với Thánh Nhân nên có tên gọi là Bất Thiện, cũng gọi là Nan Điều (sự việc khó khăn). 
Này Kim Cương Thủ! Nay Ta ở trong Kim Cương Bộ của ông lược nói 8 tên gọi Bí Mật với Đà-la-ni của ông. Nếu có người trì tụng Đà-la-ni này thì dễ được thành tựu các điều mong cầu. Nếu có người nghe Đà-la-ni này mà phát Tâm chí thành, thọ trì đọc tụng thì bao nhiêu tội nghiệp Vô Gián của người đó thảy đều tiêu diệt. 
Lúc trì Minh này, do uy lực của Pháp ắt hết thảy 8 vạn 4 ngàn câu chi na do tha chúng Ma ác đều bị tan tác chạy trốn khắp 10 phương Thế Giới. Nếu có người nghe Đà-la-ni  này mà vui nguyện hoan hỷ thì người này chẳng Trì Giới ắt vẫn được đủ Giới Tông, chẳng có Phạm Hạnh vẫn được thành Phạm Hạnh, chẳng tịch tĩnh sẽ được thành tịch tĩnh cho đến được nhìn thấy Phật Bồ Tát vui vẻ an ủi ban cho được thành tựu mọi đều nguyện cầu”
Khi ấy, Kim Cương Thủ Bồ Tát nương theo lời trách mắng dạy bảo của Đức Phật liền cúi đầu làm lễ và bạch rằng: “Thế Tôn! Trước kia con đã nói lời thành thật như Thánh Chỉ. Nguyện xin Đức Thế Tôn chẳng bỏ Đại Bi, vì khắp tất cả chúng sinh đời hiện tại và vị lai hãy diễn nói cho con biết 8 loại tên bí mật với Đà La Ni khiến cho các chúng sinh được lợi ích lớn”.
Đức Phật bảo Kim Cương Thủ rằng: “Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta ở trong Kim Cương Bộ của Tạng Trì Minh tối thắng nói về 8 tên Bí Mật của ông"
Đức Phật liền tuyên nói:
1 ) Tượng Nhĩ (tai voi) 
2 ) Diệu Trang Nghiêm (trang nghiêm màu nhiệm) 
3 ) Công Đức Bảo Hải (biển báu công đức) 
4 ) Vô Động (không lay động)
 5 ) Chân thật Vân (đám mây chân thật) 
6 ) Khả Ái Sắc Tướng (sắc tướng đáng yêu) 
7 ) Diễm Quang (ánh sáng của lửa nóng)
 8 ) Diệu Sắc (hình sắc màu nhiệm)
 
 Đấy tức là 8 tên Bí Mật của Kim Cương Thủ. Bấy giờ Đức Phật liền thuyết Chân Ngôn:  

Chân Ngôn kèm Phạn ngữ Chú:

1) Na mô một đà dã (NAMO BUDDHĀYA) 
2)Na mô Đạt lị-ma dã (NAMO DHARMĀYA)
3) Na mô Tăng già dã (NAMO SAṂGHĀYA) 
4) Na mô phộc nhật-la bá noa dã (NAMO VAJRA-PĀṆIYA) 
5) Đát điệt tha (TADYATHĀ) 
6) Khát trí (KHAṬI) 
7) Khát ra trí (KHARAṬI) 
8) Tô ma mục khê (SOMA MUKHE) 
9) Tát lị-la ca lị-dã ni sa đạt dã (ŚARĪRA CĀRYANI SĀDHAYA) 
10) Tứ lị (HILI) 
11) Di li (MILI) 
12) Trí lị (CILI) 
13) Tất điện đô mãn đát-la bát na, sa hạ (SIDDHYANTU MANTRA-PĀDA SVÀHĀ)

Đức Phật bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng: “Tám tên Bí Mật với Đà-la-ni này, nếu lại có người thọ trì đọc tụng thì người đó trong câu chi na do tha trăm ngàn kiếp chẳng bị đọa vào Địa Ngục, lúc sắp chết sẽ được chư Phật Bồ Tát hiện thân ở trước mặt an ủi nói Pháp, sau khi chết sẽ sinh về cõi Trời Đâu Suất Đà”.



LXXX. Phổ Mật Chân Ngôn

Át tai, phiệt tai, nại tai, khiết lạt tai, tô mê, tô ma, tô khế, tát phộc ca ma, sa đạt nê, hứ lê, mị lê, bệ bệ lê, tất điện đô mê, tát phộc ca ma, sa đà thất già, man đát la bát đà, toa ha.

Phạn Chú:

ALE BHALE DHALE KALALE _ SUME SUMASUKHI _ SARVAKARMA SĀDHANE _ HILI MILI _ VILI VILI _ SIDDHYANTU ME _ SARVAKARMA SVATAŚIṬAMAṂ _ DHARA-PATA SVĀHĀ.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện quy Phật Pháp Tăng với Kim Cương Thủ, hay ở chốn Nhàn Tĩnh bền vững tu Phạm Hạnh, gần gũi Chế Đa (Caitye: Tháp Xá Lợi) thọ trì đọc tụng thời hết thảy Thiện Nguyện không có gì không được cho đến Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề, luôn nhớ Túc Mệnh không có quên mất.



LXXXI. Lục Môn Đà-la-ni

Sám mê, sám mê. Sạn đế, sạn đế. Bạt điệt lệ, bạt điệt lệ. Tô bạt điệt lệ, tô bạt điệt lệ. Đế thệ, đế thệ. Chiến điệt lệ, chiến điệt lệ. Chiết điệt la phạt để. Đê thù phiệt để. Đạt ma phiệt để. Tát phộc kiết lệ thước, tỳ thâu đạt nễ. Tát phộc a lạc thát, toá đạt nễ. Mạt nhược, tăng thâu đạt nễ, sa ha.

Phạn ngữ Chú:

ŚAME ŚAME_ ŚĀNTI ŚĀNTI _BHADRE BHADRE _ SUBHADRE SUBHADRE _ TEJE TEJE _ CANDRE CANDRE _ CANDRA-VATI _ TEJO VATI_ DHARMA VATI _ SARVA KLEŚA VIŚODHANI _ SARVA- ARTHA SĀDHANI _ MANAḤ SAṂ-ŚODHANI _ SVĀHĀ.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện có niềm tin trong sạch (tịnh tín), sau khi sám hối và phát Bồ Đề Tâm thì ngày đêm 6 Thời hay đọc tụng Lục Môn Đà-la-ni (Ṣaṇmukhī-dhāraṇī) như vậy thì tất cả nghiệp chướng của người này thảy đều tiêu diệt, mau chóng ngộ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác).



LXXXII. Xưng Tán Như Lai Công Đức Đà-la-ni

Đát điệt tha: Ác khế, mạc khế, tam mạn đa mục khế, tao tỳ dục đế, đà nê, tam ma dụ kỳ, chất đa, tỳ bạt đa, ác khế, mục khế, tát đa đà nê, vĩ phệ đế, tam mạn đa yến nê, tát đa hạt la mê mục đế, bát lị mục để, tứ la mạt lệ, mâu tát lệ, a tam mê, đàm mê, a chí lệ, mạt chí lệ, bồ đề, hạt la, nị bạc hô xế, ma dụ yết lạt tứ, tốt để bàng kế, ế ma phiệt để, thọ để phiệt để, đạt ma chấn đế, a tịch kỳ tỳ, hạt la thương tỳ, tắc kiến đà, tỳ bạc đế, sa ha.

Muốn thọ trì Chân Ngôn này thì trước tiên nên  tác việc lễ sám, đảnh lễ và xưng tán hồng danh của Chư Phật sau đây, làm đúng như trong Kinh mà Đức Thế tôn chỉ dạy:
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong Chúng bảo Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Nay danh hiệu thắng diệu cát tường của chư Phật Như Lai ở mười phương trong đời hiện tại. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với danh hiệu của Như Lai này ghi nhớ, thọ trì, một lòng cung kính thì hết thảy nghiệp chướng, báo chướng, tội nặng phá Giới thảy đều trừ diệt. Công Đức chân thật , căn lành thắng diệu, tất cả Công Đức: Khuyến thỉnh, Tùy hỷ, Hồi hướng, Phát nguyện vĩnh viễn chẳng thoái Tâm Bồ Đề. Nay Ta muốn nói, ông hãy lắng nghe!"
Đức Phật liền tuyên nói:

Nam mô Đông Phương Vô Cấu Quang Như Lai 
Nam mô Đông Nam Phương Chúng Biện Trang Nghiêm Như Lai 
Nam mô Nam Phương Vô Cấu Nguyệt Tràng Kỳ Vương Như Lai 
Nam mô Tây Nam Phương Quang Diễm Trang Nghiêm Như Lai 
Nam mô Tây Phương Bảo Thắng Như Lai 
Nam mô Tây Bắc Phương Câu Ma La Quang Như Lai 
Nam mô Bắc Phương Vô Cấu Vô Úy Xưng Như Lai 
Nam mô Đông Bắc Phương Ly Bố Úy Tủng Cụ Hữu Đại Danh Xưng Như Lai 
Nam mô Thượng Phương Sư Tử Phấn Tấn Như Ý Như Lai Nam mô Hạ Phương Kim Hoa Quang Như Lai.

Đây là bài tụng nói về công đức diệu dụng bí mật của Chân Ngôn này:
“Sáu mươi ức Đại Tiên 
Đều thọ trì Chú này 
Họ thường niệm chẳng buông 
Hiện tại trụ mười phương 
Nơi cư trú trong đời 
Thường gần Thiện Tri Thức 
Hết thảy điều hy vọng 
Ứng niệm đều tùy ý 
Đời này thấy chư Phật 
Ở tại tòa Hoa Sen.

Người thường trì Chú này 
Đủ tướng để hóa sinh 
Niệm Định đều an ổn 
Mặt Trời Tuệ thêm sáng 
Thọ trì điều được nghe 
Chẳng quên các câu nghĩa.

Nếu trì tên chư Phật 
Chỗ Quy Y đời này 
Chẳng đọa vào nẻo ác 
Thường sinh trong nẻo lành 
Người này do Phật Lực 
Thường được chỗ thù thắng 
Cho đến chứng Bồ Đề 
Thường tu tập Diệu Hạnh 
Cõi Phật nhiều ngàn ức 
Vàng ròng mãn Trì Thí (giữ gìn việc Bố Thí)

Nếu người trì tên Phật 
Nơi đấy tụ nhiều Phước 
Người này hợp cúng dường 
Tùy chốn được sinh ra 
Luôn sinh nhà phú quý 
Dũng kiện thi vô khác (?) 
Tất cả các hơi thơm (Hương Khí).
Ngàn Chiên Đàn Hương đỏ 
Vượt qua trăm ức kiếp 
Thường sinh từ miệng ấy.

Nếu người trong xá trạch (nhà cửa cư ngụ) 
Viết tên Phật cúng dường 
Quyến thuộc thường an ổn 
Không có việc não loạn 
Nếu người thường tụng trì 
Sống lâu không bệnh tật 
Luôn gặp gỡ bạn lành 
Sắp chết chẳng loạn tâm 
Nhóm công đức Như Lai 
Khó suy lường lượng Phước 
Người Trí nên tụng trì 
Siêng năng, đừng phóng dật”.




 Diệu Nghĩa Đà-la-ni

Kho Chân Ngôn Bí Mật Thông Dụng

(Phần XII)


LXIII. Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú

Chân Ngôn này được Đức Phật thuyết ở cõi trời Tịnh Cư Thiên. Ngài bảo các vị Sao Tinh Tú, các vị Thiên Thần trong pháp hội, cách đây không xa có Đức Phật Ta La Vương Như Lai, vì thương tưởng chúng sanh, đã tuyên thuyết thần chú Xí Thạnh Quảng Ðại Uy Ðức Đà-la-ni là phương pháp để giải tai nạn và tật ách… Nếu có người nào, trì niệm Đà-la-ni này từ 108 biến đến 1000 biến, nhất tâm hồi hướng cầu tiêu tai giải nạn, khi tai nạn đến liền được hóa giải, sau khi chết được vãng sanh thế giới tây phương Cực Lạc.

Phạn ngữ chú:
Namaḥ samanta-buddhānām apratihata-śāsanānāṃ tadyathā oṃ kha kha khā hi khā hi hūṃ hūṃ jvala jvala prajvala prajvala tiṣṭhā tiṣṭhā ṣṭri ṣṭri sphaṭa sphaṭa śāntika śrīye svāhā.
Phát âm theo Phạn ngữ:
Na ma,sa măn ta- bút đa nam, a pơ ra ti ha tha, sà sa na nam, ta đi da tha: Om kha, kha, khà hi, khà hi, hùm, hùm, di va la, di va la, pơ ra di va la, pơ ra di va la, ti si tha, sờ tri, sờ tri, sà pha ta, sà pha ta, săn ti ka, sờ ri dê, sóa ha.

Hoa ngữ chú:
曩謨三滿哆。母馱喃。阿鉢囉底。賀多舍。娑曩 喃。怛姪他。唵。佉佉。佉呬。佉呬。吽吽。入縛囉。 入縛囉。鉢囉入縛囉。鉢囉入縛囉。底瑟姹。底瑟姹。 瑟致哩。瑟致哩。娑癹吒。娑癹吒。扇底迦。室哩曳。 娑縛訶。

Hán Việt ngữ Chú:
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha.



LXIV. Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú

Kinh Niệm Phật Ba La Mật, có ghi chép rằng: Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh thời mạt pháp, khi ấy kiếp số giảm, thọ mạng ngắn, kém phước đức, kẻ thành tâm tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người tu niệm Phật thần chú Đà-la-ni nầy, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc,đào tận rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về thế giới Cực-Lạc".

Chân Ngơn này, chính danh là Bạt Nhứt Thế Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đa-la-ni. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thường trì tụng vãng sanh tịnh độ đà la ni ấy, được đức A Di Ðà thường ngự ở trên đỉnh đầu, đêm ngày để ủng hộ hành giả, khiến cho kẻ oan gia trái chủ không có cơ hội trả thù, hiện đời sống an lạc, đến lúc lâm chung, tốc vãng sanh thế giới Cực Lạc, hà huống đêm ngày trì niệm, công đức bất khả tư nghị.

Phạn ngữ Chú:

Namo’mitābhāya tathāgatāya tadyathā amṛtod bhave amṛta-siddhaṃbhave amṛta-vikrānte amṛtavikrānta gāmini gagana kīrta-kāre svāhā.
Phát âm Phạn ngữ Chú:
Na ma, a mi ta ba gia, ta tha ga ta gia, tát đi da tha: A mi rị tốt -ba vê, a mi rị ta -sít đam ba vê, a mi rị ta -vi kờ răng tê, a mi rị ta -vi kờ răng ta, ga mi ni, gà ga na, kịt taka rê, soa ha.

Hoa ngữ Chú:
南無阿彌多婆夜。哆他伽多夜。哆地夜他。阿彌利 都婆毗。阿彌唎哆悉耽婆毗。阿彌唎多毗迦蘭帝。阿彌 唎哆毗迦蘭多。伽彌膩伽伽那。枳多迦利。娑婆訶。
Hán Việt Chú:
Nam mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ,Ta bà ha.

Minh Tăng Tông Bổn Tịnh Độ Hành Pháp nói: Trước khi tu trì chân ngôn này, người tu trì phải tắm rửa sạch, dùng nước súc miệng, dâng hương hoa, chấp tay cung kính, quỳ trước Phật đài, đêm ngày sáu thời trì niệm chú này. Nếu tụng bảy biến, tức diệt hết tứ trọng ngũ nghịch và thập ác phỉ báng Phật pháp, hiện đời an ổn, chế phục âm ma quỷ thần chúng. Nếu có người tụng đủ hai mươi vạn biến, tức cảm hạt giống bồ đề nảy sanh. Nếu tụng mãn ba mươi vạn biến, thì thấy được kim thân sắc tướng Phật A Di Đà, quyết định vãng sanh tây phương Cực Lạc.



LXV. //*//- CHƯ CHÂN NGÔN BÍ MẬT THIẾT YẾU

Đây là những Chân Ngôn thiết yếu bí mật mà hành giả Kim Cương phải biết, để khi nhập Mandala có thể tịnh trừ tất cả chướng ngại, nhận được tất cả sự gia trì tối thượng từ chư vị Bổn Tôn và chư vị Hộ Pháp Long thần, để giáng phục tứ ma thành tựu Đại Tâm Kim Cương của mình.
1. Phật Nhãn Chân Ngôn

On Bodaroshani Sowaka

Nguyện xin quy mạng Phật Nhãn khắp mười phương ba đời Như Lai Tối Thắng Tôn!

2. Thai Tạng Đại Nhựt Chân Ngôn

A Bi La Un Ken

Nhất tâm khể thủ lễ quy y trước Bổn Tôn của Kim Cang Giới! Thai Tạng Đại Nhựt Tôn!


3. Bất Động Minh Vương Chân Ngôn
Noomaku Samanda Bazaradan Senda Makaroshada Sowataya un Tarat Kanman.
Xin quy y tất cả các vị Kim Cang, đặc biệt hiện ra tướng bạo ác đại phẩn nộ để chiến đấu với phiền não và ác ma. Ngài Bất Động Minh Vương.

4. Giáng Tam Thế Minh Vương
On Sobanisoba Un Bazara Un Hatta.
Quy y với Hàng Tam Thế Minh Vương, đầy đủ Kim Cang lực, để phá hủy các Ma phẩn nộ.

5. Cam Lồ Quân Trà La Minh Vương Chân Ngôn
On Amiritei Un Hatta
Quy y Đức Cam Lồ Quân Trà Lợi Minh Vương! Phá dẹp những ma phẩn nộ.

6. Đại Uy Đức Minh Vương Chân Ngôn
On Shuchiri Kyararoha Un Ken Sowaka
Quy y vị có hắc thân đáng sợ hãi, là bậc Đại Uy Đức Minh Vương! Cầu cho được thành tựu hạnh phúc.

7. Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương
On Bazara Yakisha Un
Quy y Đấng Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương! Xin hàng phục các ác ma.

8. Đại Kim Cang Luân Chân Ngôn
Noomaku Shutchiriya Jibikyanan Tatagyatanan An Biragi Makashakyara Bajiri Tarai Bitamani Sanhanzani Taramachi Shitta Giriya Taran Sowaka.

Xin quy y tất cả ba đời chư Phật, vô cấu, thật là vô cấu, Đại luân Kim Cang Tam Muội thật kiên cố, thật là kiên cố, dũng kiện, thật là dũng kiện. Ở đời để giúp đời. Bậc cứu thế trừ dứt những cấu uế và phá bỏ hết! Hãy giúp cho con người được thành tựu trí tuệ tối thượng!



LXVI. Tối Diệu Kim Cương Tâm Đà-la-ni

Kinh Hoại Tướng Kim Cương Đà-la-ni có dạy:
Lúc bấy giờ Kim Cương Thủ nương theo thần lực của Đức Phật với sức gia trì của tất cả Như Lai, chư vị Bồ Tát… nên Kim Cương Phẫn Nộ nói: “Tối Diệu Kim Cương Tâm Đà-la-ni này không bị chặt đứt, không bị hư hoại, chân thật bền chắc, không bị gây trở ngại cũng không có lui sợ. Tất cả chúng sinh đều khiến cho khiếp sợ, hay cho chúng sinh tồi phục phiền não, cắt đứt các Minh Chú, trấn các Minh Chú vời đập nát các Hành hay phá hạnh kẻ khác, bẻ gảy các Ma, giải các Ma Chấp, câu cú nhiếp tất cả các chúng Bộ Đa. Lại khiến cho tất cả tu Minh Chú, người chưa thành tựu khiến được thành tựu, người đã thành tựu chẳng khiến cho quên mất, hết thảy ước nguyện đều khiến cho như ý, cũng hay hộ giúp tất cả chúng sinh được ngưng dứt tai nạn, tăng thêm lợi ích. Lại hay cấm chỉ các hữu tình ác mê muộn…. đều là sức của Đà-la-ni Thần Chú”.
Kim Cương Thủ nương theo thần lực của Đức Phật, liền nói Chân Ngôn:

Na mô la noa tra dạ da. 
Na mô tán tra phộc nhật-la bạt noa duệ, ma ha dạ già tất noa bạt đát duệ.
Đát điệt tha: Án, đát-la tra, đát-la tra, đổ-la tra gia, đổ-la tra gia, thất bồ tra, thất bồ tra, thất bà tra gia, thất bà tra gia, cô-lý noa, cô lý-noa,cô lý-noa bạt gia, cô lý-noa bạt gia.
Tát lý-phộc tát đỏa ni, bạt đa, bạt đa, tam bạt đa gia, tam bạt đá gia, bát-la ma, bát-la ma, tam bát-la ma gia, tam bát-la ma gia.
Tát lý-phộc bồ đát ni, cô tra cô tra, tam cô tra gia, tam cô tra gia. 
Tát lý-phộc thiết đốt-lỗ nam, cát tra cát tra, tam cát tra gia, tam cát tra gia. 
Tát lý-phộc tỳ đát-gia, phộc nhật-la, phộc nhật-la thất-bồ tra, phộc nhật-la, phộc nhật-la cát tra, phộc nhật-la, phộc nhật-la ma tra, phộc nhật-la, phộc nhậtla ma tha, phộc nhật-la, phộc nhật-la, a tra ha tát ni lạt, phộc nhật-la, tô phộc nhật-la duệ, sa-phộc ha. 
Hề, bồ lỗ, ni bồ lỗ, cát-lý noa, cô lỗ, nhĩ lý, thô lỗ, cô lỗ cô lỗ, phộc nhật-la tỳ táp gia, sa- phộc ha. 
Cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Cát tra cát tra, ma tra ma tra, la tra la tra, ma tra noa, bát-la ma tra noa duệ, sa-phộc ha. 
Tạt la tạt la, ha la ha la, tát la tát la, ma la gia, phộc nhật-la tỳ đát la noa duệ, sa-phộc ha. 
Thân đa thân đa, tần đa tần đa, ma ha cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Ban đa ban đa, qua-la đa, qua-la đa, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. 
Thô lỗ thô lỗ, tán tra, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha Đát-la tát gia, đát-la tát gia, phộc nhật-la, cát lý, cát lạt gia, sa-phộc ha. Ha la ha la, phộc nhật-la, đa la gia, sa-phộc ha.
Bát-la ha la, bát-la ha la, phộc nhật-la, bát-la ban tạp noa duệ, sa-phộc ha. 
Ma đế, thất- đề la phộc nhật-la, tô đế, thất-đề la phộc nhật-la, bát-la đế , thất-đề la phộc nhật-la, ma ha phộc nhật-la, a bát-la đế ha đát, phộc nhật-la, a ma cát, phộc nhật-la, y hề phộc nhật-la, thất cát-lãng, phộc nhật-la gia, sa-phộc ha. 
Đa la đa la, đế lý đế lý, đổ lỗ đổ lỗ, tát lý-phộc, phộc nhật-la cô lan, a phộc-lý đát gia, sa-phộc ha.
A mẫu cương, ma la gia, phát tra, na ma tam mãn đa phộc nhật-la nam, tát lý-phộc phộc lạt, a phộc-lý-đát gia, ma ha phộc nhật-la ma a phộc liệt cát đát bế đát đát liệt, a tạt liệt, mạn tra lạt ma duệ, a đế phộc nhật-la, ma ha phộc liệt tỳ cát la noa, a tích đế, tá lạt tá lạt, đế đế-lý,đế đế-lý, định cát liệt đa, ha đa , ha để, tạt bạt đế, đế lý đế lý, ban đa ban đa, ma ha phộc liệt, phộc nhật-la , ngang cát, tá lạt gia, sa-phộc ha.
Na mô la noa tra dạ da. 
Na mô tán tra phộc nhật-la bạt noa duệ, ma ha dạ già tất noa bạt đát duệ. 
Đát điệt tha: Án, ha la ha la, phộc nhật-la, ma tha ma tha, phộc nhật-la, đổ noa đổ noa, phộc nhật-la, đa ha đa ha, phộc nhật-la, bạt tạt bạt tạt, phộc nhật-la, đa la đa la,phộc nhật-la, đa la gia, đa la gia, phộc nhật-la, đa lỗ noa, đa lỗ noa, phộc nhật-la, thân đa thân đa, phộc nhật-la, tần đa tần đa, phộc nhật-la,hồng phát tra. 
Na mô tán tra phộc nhật-la, cô-lỗ đà gia, hô lỗ hô lỗ, đế sắt-đà, đế sắt-đà, ban đà ban đà, ha noa ha noa, a di lý đế, hồng, phát tra.

Thần lực và diệu dụng của Chân Ngôn này rất lớn, không thể nghĩ bàn, như Kệ nói:

"Nghiệp tội đều trong sạch 
Trừ hết tất cả khổ 
Căn bản của các Kinh 
Trang nghiêm tướng Diệu Đức 
Hữu tình tổn hại căn 
Mạng hết với chết yểu 
Gặp lúc chẳng giàu có 
Và chư Thiên bỏ quên 
Bạn thân phản, ghét hại 
Bà La Môn cáu giận 
Quấy hại chẳng hòa thuận 
Thiếu tiền và nhiễu não 
Buồn lo, khổ bức bách 
Gặp nạn, nghèo khốn khổ 
Tinh Diệu ác, Chú Trớ 
Bị các Ma xâm hại 
Do ôm ấp lo âu 
Mộng thấy chẳng tốt lành 
Tắm gội đều trong sạch 
Nên nghe Kinh Tối Thắng.

Nếu có tâm tịnh thiện 
Mặc quần áo sạch sẽ 
Y Hạnh sâu của Phật 
Người thọ trì Kinh này 
Do sức uy thần đó
Thời các hữu tình ấy 
Hết thảy nhóm bệnh khổ 
Đều khiến tiêu diệt hết 
Phước thọ đều tăng ích 
Xa lìa các tội dơ 
Châu (ngọc châu), giới (hạt cải), hương, mạn (loài tực vật bò dài dưới đất), cỏ 
Báu không vết, Chiên Đàn 
Ngọc, Kim Cương, Chày, hoa 
Muối, nước sạch, bình vàng 
Hoặc dùng bạc làm bình 
Buộc tơ sạch, tràn đầy 
Số niệm hai mươi mốt (21) 
Hoặc đủ trăm tám biến (108 biến) 
Hoại Tướng Kim Cương Chú 
Quốc vương thường tắm gội".



LXVII. Kim Thân Đà-la-ni

Chân Ngôn kèm bản Phạn ngữ Chú:

1) Na mô một đà nẫm (NAMO BUDDHĀNĀṂ) 
2) Ma đế đà, na nga đa, bát-la đát-du đát-bán na nẫm (ATITĀNĀGATĀ PRATYUDPANNĀNĀṂ) 
3) Na mô a mi ta bà dã, đát tha nga đa dã, a la-hạt đế , tam miệu-tam một đà dã (NAMO AMITABHĀYA TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA) 
4) Đát nãnh tha (TADYATHĀ) 
5) Án (OṂ) 
6) Ma vĩ lị, ma vĩ lị (MĀ VĪRĪ MĀ VĪRĪ) 
7) Di đà phộc đế, di đà phộc đế (MEDHĀ-VATI_ MEDHĀ-VATI) 8) A mật-lị đổ nạp-bà phệ (AMṚTODBHAVE) 
9) Một đà ma đế (BUDDHA-MATI) 
10) Một đà bà thủy đa (BUDDHA BHĀṢITA) 
11) Tát lị-phộc đạt-lị-mộ lặc-ca nhập-phộc lý nễ (SARVA DHARMOLKĀ JVĀLINI) 
12) Một đề, một đề ( BUDDHI BUDDHI ) 
13) Ma ha một đề (MAHĀ-BUDDHI ) 
14) Ma hạ vĩ lị (MAHĀ-VĪRI) 
15) Phệ nga phộc để (VEGA-VATI) 
16) Nga lỗ noa phệ nga phộc để (GARUḌA VEGA-VATI) 
17) Ấn nại-la phộc nhật-la phệ nga phộc để (INDRA-VAJRA VEGA-VATI) 
18) Một đà vĩ lạc cát đế (BUDDHA VILOKITE) 
19) Mâu nĩ mâu nĩ (MUṆI MUṆI) 
20) Ma ha mâu nĩ phát tra ( MAHĀ-MUṆI PHAṬ) 
21) Na mô một đà đạt lị-ma tăng gìa nẫm mạt lệ na (NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHA VARDHA) 
22) Tát lị-phộc dược xoa, la xoa sa (SARVA YAKṢA RĀKṢASA) 23) Tất xá tả (PIŚĀCA) 
24) Cổ sắt-man noa (KŪṢṂĀṆḌA) 
25) Bố đát na (PŪTANA) 
26) Yết tra bố đát na (KAṬA-PŪTANA) 
27) Tát lị-phộc cật-la hạ nễ phộc nãnh (SARVA GRAHĀ DEVĀNĀṂ) 
28) Nạp sắt-tra tức đương (DUṢṬA-CITTAṂ) 
29) Ba la bế noa cương (PARAPĪḌĀKAṂ) 
30) Cật-lị hận-noa, cật-lị hận-noa (GṚHṆA GṚHṆA) 
31) Cật-la sa, cật-la sa (GRĀSA GRĀSA) 
32) Ma la ma la (MĀRA MĀRA) 
33) Bán nhạ, bán nhạ ( BHAÑJA BHAÑJA) 
34) Nại hạ, nại hạ (DAHA DAHA)
35) Bát tả, bát tả (PACA PACA) 
36) Hạ na, hạ na (HANA HANA) 
37) Tát lị-phộc một đà nẫm, mạt lê na (SARVA BUDDHĀNĀṂ VARDHA ) 
38) Na thiết dã, na thiết dã (DASYA DASYA) 
39) Tần nại, tần nại (CCHINDA CCHINDA) 
40) Thân nại, thân nại (BHINDA BHINDA) 
41) Mâu lỗ, mâu lỗ (MURU MURU) 
42) Vĩ nại-la bát dã, vĩ nại-la bát dã (VIDRAPĀYA VIDRAPĀYA) 43) Tát lị-phộc la xoa tang (SARVA RAKṢA MĀṂ) 
44) A nãnh thất-tả, ma nậu xa, a ma nậu xa (ANĀTHASYA MANUṢYA AMANUṢYA) 
45) Mãn đà, mãn đà (BANDHA BANDHA) 
46) Tang cổ tả, tang cổ tả (SAṂKOCA SAṂKOCA) 
47) Vĩ cổ tả, vĩ cổ tả (VIKOŚA VIKOŚA) 
48) Tắc-bố tra, tắc-bố tra (SPHAṬ SPHAṬ) 
49) Đạt lị-nhạ, đạt lị-nhạ (TARJA TARJA) 
50) Nga lị-nhạ, nga lị-nhạ (GARJA GARJA) 
51) Hạ na, hạ na (HANA HANA) 
52) Tát lị-phộc mãn đát-lam (SARVA MANTRAṂ) 
53) Tát lị-phệ lỗ mão (SARVA ĪRMA) 
54) Vĩ hạ na, vĩ hạ na (VIHANA VIHANA) 
55) Lao xoa hàm, tát bà lị la la (RAKṢA MĀṂ_ SARVA ŚARĪRA) 
56) Tát lị-phộc tát đỏa nan tả, sa hạ (SARVA SATVĀNĀṂ CA SVĀHĀ)

Đức Phật dạy rằng: Đà-la-ni này có công đức lớn. Nếu có người đội trên đỉnh đầu thì hết thảy tất cả La Sát, Tất Xá Tả quỷ.... ở trong 1000 do tuần chẳng dám xâm hại.
Lại nếu có người đang tụng Đà-la-ni này một biến thì có các Thiên Tử và quyến thuộc trú ở ngoài 1000 do tuần sẽ tác ủng hộ. 
Lại nếu có người tụng Đà-la-ni này thì hết thảy tất cả Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan Gia) với Đại ác hổ lang trùng yểm đều tự nhiếp phục chẳng dám làm hại. 
Lại nếu có người hay phát tâm Chí Thành, trong mỗi một ngày tụng Đà-la-ni này đủ 100 biến thì người này liền được thành tựu thuốc An Thiện Na, dùng thuốc bôi lên mắt sẽ nhìn thấy sự việc trong ba đời Lại nếu có người tụng Đà-la-ni này thì hay khiến cho kẻ có Tâm phẫn nộ liền sinh Tâm kính yêu. 
Lại nếu có người chí Tâm tụng  Đà-la-ni này hai Lạc Xoa (20 vạn) biến thì tất cả phiền não thảy đều tiêu diệt. Lại nếu có người tụng trì Đà-la-ni này lâu dài thì người đó liền được Túc Mệnh Trí . 
Lại nếu có người dùng Đà-la-ni này gia trì vào dầu sạch rồi xoa trên đầu, trên bụng, rốn thì nếu có bệnh về đầu, bụng với tất cả bệnh độc ác khác tùy theo chỗ xoa ắt bệnh được tiêu tan. 
Lại nếu có người lấy một hạt hồ tiêu, dùng Đà-la-ni này gia trì 21 biến cầm đến xứ La Nhạ (nơi vua chúa ngự) thì mọi nguyện cầu đều được như ý . 
Đà-la-ni này có công đức lớn. Nếu muốn thành tựu các việc như trên thì cần phải thọ trì .



LXVIII. Bảo Sinh Đà-la-ni

Nẵng mô la đát-nẵng, la thấp-di, tán nại-la, bát-la để mạn ni đá vĩ nễ-diễm, đế nhạ, cụ thế thấp-phộc la, la nhạ dã, đát tha nga đá dã, la-hạ đế, tam miệu tam bột đà dã. 
Đát nễ-dã tha: La đát-nễ, la đát-nẵng, cát la ni, la đát-nẵng, bát-la để mạn nị đế, la đát-nẵng tam đà ni, la đát-nẵng, bát-la nị, la đát-nỗ nột nga đế, sa-phộc ha.

Nếu có chúng sinh nào đối với danh hiệu Như Lai Đà-la-ni  này, thọ trì cúng dường thì đời đời người ấy được Địa Vị Chuyển Luân, thành tựu Phạm Hạnh, đủ đại Thần Thông, được mười loại Đà-la-ni. Lại được gặp hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai mà chẳng hề có hư vọng. Trải qua câu đê kiếp thường chẳng đi vào nẻo Luân Hồi, chẳng cắt đứt hạt giống Bồ Đề, chẳng mất Tâm Bồ Đề, diệt hết tất cả tội, được Báo Thân Như Lai.
Nếu có người trì tụng mãn 7 ngày thì người ấy sẽ được Thiên Nhãn thanh tịnh. Nếu người kia được nghe Đà-la-ni này qua lỗ tai thì luôn luôn ghi nhớ và quyết định được Bồ Đề. Hết thảy mọi căn lành đã tạo được ở đời quá khứ đều được hiện tiền. Nếu truyền cho một người đã gây ra tội nghiệp Vô Gián thì tội đó đều được trừ diệt và cắt đứt hẳn sự luân hồi. Người đó chẳng bị nước, lửa, trộm, cướp, xâm hại, được đầy đủ các căn, chẳng sinh mọi bệnh, chẳng bị dính mắc Quỷ Mỵ, mọi nơi yêu kính, đời sau được thọ trì Pháp vi diệu của Như Lai, cúng dường chư Phật. 
Nếu có người nghe xong mà Tâm vui vẻ, lễ bái , ca ngợi thì người ấy có Công Đức vô lượng vô biên, đời đời trong miệng tỏa ra mùi thơm vi diệu bao trùm một Do Tuần. Trên thân thể, trong mọi lỗ chân lông luôn có hào quang thường tự chiếu sáng, thường làm mọi việc thắng lợi của Như Lai, như Ngài A Nan Đà, có đủ công đức như vậy chẳng thể luận bàn.



LXIX. Liên Hoa Nhãn Đà-la-ni

Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã Nẵng ma a lị-dã bát nột-ma nễ đát-la dã , đát tha nga đá. 
Nẵng mô tát lị-phộc nễ phộc la noa vĩ sắt-ca tỉ ni, mạo địa tát đá-phộc dã, ma ha tát đát-phộc dã. 
Đát nễ-dã tha: Án, đá la đá la, cát lệ cát lệ, đổ lỗ đổ lỗ, ca la ca la, cát lệ cát lệ, câu lỗ câu lỗ, bà la bà la, tỉ lị tỉ lị, bộ lỗ bộ lỗ, nẵng dã nẵng dã, câu lỗ câu lỗ, mô khất-xoa bá giả, sa-phộc hạ. Nhập phộc la nẵng phộc tứ-nễ nễ tỉ, sa-phộc hạ. Tát lị-phộc đát tha nga đá, để sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ. Ma ma tát-lị phộc nan tả, sa phộc hạ.

Nếu có người vào mỗi buổi sáng, buổi chiều cung kính cúng dường và niệm Đà-la-ni này 108 biến. Một ngày, hai ngày cho đến 21 ngày chí Tâm trì tụng thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, cũng chẳng bị các bệnh về Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và Tâm chẳng tà loạn. 
Lại được 5 loại mắt thanh tịnh, 5 loại tai thanh tịnh, 5 loại mũi thanh tịnh, 5 loại lưỡi thanh tịnh, 5 loại ý thanh tịnh. Thân được đoan nghiêm ngay thẳng, Tâm lìa cấu nhiễm. Ở trong tất cả đời thường phát Tâm Bồ Đề cùng với các Chúng Thánh thường gặp Phật, được nghe Diệu Pháp, tiến thẳng đến Đạo Trường Bồ Đề, viên mãn Chính Giác.



LXX. Tối Thượng Thắng Phan Anh Lạc Chân Ngôn

TADYATHĀ: KARU KARU , KIRI KIRI, KURU KURU, SĀRA SĀRA , SIRI SIRI , SURU SURU _ SARVA BUDDHA AVALOKITE VARA VARA _ DHARMA-MUKHE CARA CARA _ SAṂGHA ADHIṢṬITE BHARA BHARA _ ADIKA BUDDHA KOTI BHÀSITE KSÌNÀ KSÌNÀ _ SARVA KARMA AVARAṆANI, SARVA PĀPANI, SARVA DUḤKHA, NIVĀPAṆAYA _ BHṚ ṬAL BHṚ ṬAL, DHṚ ṬAL DHṚ ṬAL, TAṬA TAṬA SPHOṬAYA _ SARVA KARMA AVARAṆA APĀYA DURGATINI SARVA SATVANĀṂCA SVĀHĀ.

Hán dịch:

Đát nễ-dã tha: Ca la ca la, chỉ lý chỉ lý, câu lỗ câu lỗ, sa la sa la, tất lý tất lý, tô lỗ tô lỗ, tát lý-phộc một đà , phộc-lộ chỉ đế, phộc la phộc la, đạt lý-ma mục khế, tả la tả la, tăng già địa sắt-xỉ đế, bà la bà la, a nễ ca một đà câu chi bà sử đế, sát noa sát noa, tát lý-phộc yết lý-ma phộc la noa nễ, tát lý-phộc bá ba nễ , tát lý-phộc nậu khư nễ hà ba nẵng dã, bộ-lý tra, độ-lý tra độ-lý tra, đát tra đát tra, đát phổ tra dã, tát lý-phộc yết lý-ma phộc la noa, bá dã, nột lý-nga đế nễ, tát lý-phộc tát đát-phộc nam tả, sa-phộc ha.

Thắng Phan Anh Lạc Đà-la-ni này là điều mà hằng hà sa chư Phật cùng chung tuyên nói. Nay Ta vì các ông lại tuyên nói. Thiện Nam Tử! Đà-la-ni này rất hiếm có, khó gặp được. Ví như khó có thể được gặp Đức Như Lai kia xuất hiện ở đời. Được gặp Đà-la-ni này còn khó hơn gấp bội Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện được nghe danh tự của Thắng Phan Anh Lạc Đà-la-ni này khởi tâm tin tưởng thọ trì, luôn luôn đọc tụng thì hết thảy tội nặng năm nghịch của người đó thảy đều được diệt hết, được thấy quả báo, được đại phú quý, đời sau sẽ sinh vào dòng tộc cao thượng. 
Nếu lại kẻ trai lành, người nữ thiện đem Công Đức thù thắng của Đà-la-ni này rộng tuyên lưu bố , vì người giải nói, hoặc khuyên người viết chép đọc tụng thời từ xa Ta đã biết cho đến Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn Phật, Yết Nặc Ca Mâu Ni Phật, Ca Diệp Phật. Như vậy hằng hà sa đẳng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác của đời quá khứ thảy đều nghe biết. Người này có được công đức vô lượng vô biên.



LXXI. Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Đà-la-ni

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Cung Chủ Nhật Nguyện Thiên Tử nói rằng: “Này Thiên Tử! Ông hãy lắng nghe! Nay Ta vì ông nói tên của Phật Bồ Tát với Đà-la-ni”
Lúc đó Cung Chủ Nhật Nguyệt Thiên Tử nhận lời dạy rồi lắng nghe. 
Liền nói tên của Phật, Bồ Tát là: 
Nẵng mô Trí Quang Như Lai 
Nẵng mô Chân Thật Như Lai 
Nẵng mô Thậm Thâm Thanh Vương Như Lai 
Nẵng mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai 
Nẵng mô Phẫn Nộ Như Lai 
Nẵng mô Bảo Nguyệt Như Lai 
Nẵng mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng Mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng mô Trì Địa Vương Bồ Tát Ma Ha Tát 
Nẵng mô Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát

Lại nói Đà-la-ni là: 

1_ Đát nễ-dã tha 
2_ Tam dã thể nan, tác sô, na na, tác sô, bát-la bà độ la di tha, ca la 
3_ Y thể tham, sa tô la na, sa tô la na 
4_ A tha sa, y tha sa 
5_ Phệ la, phệ la
6_ Ba lý noa ma tả lỗ một lý-để nễ 
7_ A phộc ni, a la ni 
8_ Ca la ba ni, ca la ba ni 
9_ Đổ lỗ đổ tế, đổ lỗ độ tế 
10_ Đổ lý-thổ lỗ độ tế 
11_ La tốn để tốn để 
12_ Bế lý bế lý 
13_ Độ lỗ, độ lỗ, độ lỗ, độ lỗ 
14_Ca la, ca la 
15_ Sa tha tô, sa tha tô 
16_ Nghệ la, nghệ la 
17_ Nghệ la ba dã, nghệ la ba dã 
18_ Hạ tô lỗ, hạ tô lỗ 
19_ Đà tô tốn độ, tốn bộ tế tha tô, a tha sa ba nễ, nhạ dã lỗ lý tha, tô lý chỉ la 
20_ Ngu lý-ma, ngu lý-ma 
21_ Ngu lý-ma bá ni, kế lỗ kế lỗ 
22_ Kế la bá ni, ca la ca lý 
23_ Lăng độ nỉ, độ lỗ nỉ 
24_ Ma hạ độ lỗ nỉ 
25_ Ca la ca la 
26_ Chỉ lý chỉ lý 
27_ Vĩ phổ tế, vĩ phổ tế 
28_ Độ tô, độ tô 
29_ Hạ tô, hạ tô 
30_ Hạ sa bá ni, sa-phộc hạ.

Khi Đức Thế Tôn nói Đà-la-ni đó xong thời Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Cung Chủ Nhật Nguyệt Thiên Tử rằng: “Này Thiên Tử! Đà-la-ni này đều được 88 câu chi chư Phật đời quá khứ cùng chung tuyên nói. Đức Như Lai Đại Từ Đại Bi vì muốn ủng hộ lợi ích cho tất cả chúng sinh, nay lại tuyên nói. 
Thiên Tử! Đà-la-ni này rất vi diệu, rất khó gặp, khó nghe ví như hoa Ưu Đàm hiếm có rất khó thấy. Lại như Đức Như Lai xuất hiện ở Thế Gian cũng rất hiếm có, rất khó gặp. Đà-la-ni này cũng lại như thế.
Này Thiên Tử! Nếu sau khi Đức Phật nhập diệt, lúc Chính Pháp diệt thời hoặc có chúng sinh gây tạo năm tội Nghịch ắt sẽ bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ. Nếu người đó được gặp thấy Đà-la-ni này, hay tịnh thân tâm, dũng mãnh bền chắc ở 21 ngày đêm, ngày ba thời đêm ba thời, tâm tâm tương tục không gián đoạn niệm Chương Cú của Đà-la-ni này, chí tâm sám hối thì nghiệp Vô Gián của người đó sẽ được diệt hết không có dư sót. 
Thiên Tử! Lại người đó dùng sức uy đức của Đà-la-ni Chương Cú này có thể khiến cho Địa Ngục bị phá vỡ thành trăm mảnh cho đến không còn dư sót. Lại khiến cho chúng sinh bị nghiệp tội trong đó cũng được giải thoát, mỗi mỗi đều sinh vào cõi Diêm Phù Đề, được thân người, lại được nghe biết. Đây là chư Phật Bồ Tát dùng sức Công Đức của Đà-la-ni cứu bạt cho Ta. Huống chi là thân nghiệp của người trì tụng ư”