-ഛ HOÀI CẢM ---
Cuối trời mây khuất bóng
Lặng lẽ bến cô liêu
Sóng vỗ khua mái chèo
Thuyền trôi trên sông vắng.
Ông câu buông cần xuống
Cá vàng không thấy đâu
Trăng lặng trên mái cầu
Hư không màu hợp thể.
Con về lòng ngấn lệ
Theo đường vắng mưa rơi
Lạnh quá phố không người
Mình con lê chân bước.
Cuộc đời ai biết trước
Vô thường thoáng qua tay
Duyên sinh thế gian này
Hợp tan màu ly biệt.
Dòng thư tình con viết
Ngập tràng huyết lệ châu
Thương nhớ trắng mái đầu
Về cố hương xa vắng.
Ngày con đi biển lặng
Qua mấy rặng quan san
Đi trong ánh hào quang
Ngập tràng hư không giới.
Hoa rơi, Nguyệt Quang chói...
Với Phạm âm diệu kỳ
In khắc bóng Từ Bi
Trong Đại Tâm vô tận.
Hương nồng vòng tay ấm
Ru con xuống hồng trần
Cỡi sóng vỗ phong vân
Ứng thân vào nhân thế.
Trăng tàn đã mấy độ
Thu đến rồi đông sang
Ơi, con sóng võ vàng
Vỗ tan lòng lữ khách!
Đêm từng đêm con khóc
Cho lệ nhuốm thế gian
Hương lệ gởi Lạc Bang
Cha già- Người có biết?
Dòng thư này con viết
Nặng hạt mưa rơi rơi
Mưa rơi hòa lệ rơi
Trong bóng đêm vô tận.
Thế gian đầy trường hận
Dục ái đốt hữu tình
Con quyết đem quang minh
Sáng soi lòng sanh chúng.
Chí trượng phu hùng dũng
Bồ Đề Tâm phát sinh
Thệ kiên quyết một mình
Phá tan rừng ma ý.
Đại Tâm chưa phỉ chí
Lại phải thuận thế gian
Độ Tăng, kiến Đạo Tràng
Báo đền ân Đức Phật.
Lòng chua cay chất ngất
Trông những kẻ phũ phàng
Con có mang thế gian
Nuốt vào tâm tan biến?
Hận thù này ai khiến
Muôn cách họ hại con?
Mỉm cười với lòng son
Mà ruột đau như cắt.
Vì Đại Tâm dẫn dắt
Vì thương họ như con
Vì sóng ái dập dồn
Nhấn chìm kiếp sanh chúng.
Con về lòng rơi rụng
Theo từng bước thế nhân
Lệ cháy cả hồng trần
Nhớ cố hương xa ấy...
Cõi nhân sinh ai khuấy
Mà ăn nuốt lẫn nhau?
Ôi, gian thế một màu
U minh bao giờ tắt?
Ruột gan con quặn thắt
Thân muốn vỡ muôn phần
Phần gởi cho cố nhân
Phần nhập hư không giới.
Phủ trùm chúng sanh giới
Khiến họ phát Bồ Đề
Vượt thoát nẻo u mê
Đồng sanh về An Dưỡng.
Đồng chí tâm hướng thượng
Đồng tu hạnh Phổ Hiền
Đồng độ hết nhân thiên
Đồng chứng thành Phật quả.
Qua song từng chiếc lá
Nhẹ rơi theo bóng đêm
Sương trắng phủ qua thềm
Đèn soi người không bóng.
Tình ơi! Tình dậy sóng!
Người ơi! Người biết không?
Tình ơi! Tình bão dông!
Qua mấy mùa trái chín.
Tình ơi! Tình câm nín!
Tình vỡ với hư không
Tình ơi! Tím ngập lòng
Tình cháy hồng muôn kiếp?
Tình ơi! Bao giờ khép?
Cho nước mắt ngừng tuôn
Cho chết cả suối nguồn
Đại Bi tâm con phát?
Đêm nay sương nặng hạt
Phủ kín một trời đau
Phủ cả không gian sầu
Trong bóng đêm vô tận.
Phù sinh trường đại mộng
Máu lệ nhuốm Ta Bà
Hồn tan theo ngày qua
Nhớ cố hương xa quá!
...
Ấn Độ đêm 17/3/2022
_ೋ۞ Thích Long Viễn ۞ೋ_
"Vạn Pháp Tùy Duyên" nếu đã hữu duyên...hãy dừng chân mà nghe tôi kể: Thầy tôi (Lương Sơn Long Viễn, Chùa Phật Đảnh Bảo Vương, T.P. Nha Trang- Khánh Hòa) ngay từ thuở ấu thơ luôn ấp ủ giấc mơ đi tìm Chánh Pháp và rồi Người đã ra đi...hiến trọn đời mình cho hạnh phúc chúng sanh ...những chặn đường Người đi đều thấm đẫm nước mắt...Blog nhỏ này...Tôi xin lưu lại những câu chuyện về Người, góp nhặt lời Người dạy...đó là những lần tôi được nghe khi có dịp về thăm nơi trú xứ- núi rừng bình yên ấy...
Thứ Năm, 17 tháng 3, 2022
MA ĐẠO
&
CON ĐƯỜNG HIỆP GIÁC ĐẠI BỒ ĐỀ
(Đây là đoạn Pháp thoại ngắn Sư Phụ Long Viễn khai thị cho một hành giả đến tham vấn về Bồ Đề Tâm, diệu Pháp được nói đến thật vi diệu không thể nghĩ bàn!)
Gốc bốn biện tài, bốn vô úy,
Cũng là gốc của thập bát pháp;
Đắc những thứ ấy do phát tâm”.
1. Nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật.
2. Nhớ ơn cha mẹ.
3. Nhớ ơn sư trưởng.
4. Nhớ ơn thí chủ.
5. Nhớ ơn chúng sanh.
6. Nhớ khổ sanh tử.
7. Tôn trọng linh tánh của mình.
8. Sám hối nghiệp chướng.
9. Cầu sanh Tịnh độ.
10. Vì mong muốn làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.
Mười thứ này Ông có thể tìm hiểu và nguyên cứu trong Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Thật Hiền Đại Sư để liễu tri rõ hơn, nếu có gì không hiểu thì ông có thể đến hỏi tôi, tôi sẽ vì Ông mà phân tích rõ.
Lại nữa, Bồ Đề Tâm có hai loại:
1. Một là nguyện Bồ Đề Tâm.
2. Hai là trụ Bồ Đề Tâm.
Nghĩa là bước đầu tiên Bồ Tát phải phát tâm lập nguyện, sau đó an trụ trong tâm nguyện đã phát mà hành thâm. Như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: "Này Thiện nam tử! Có chúng sanh ở trong cõi chúng sanh mà nguyện chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm khó được! Có chúng sanh trụ vào A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm khó được!" Phát tâm đã khó mà trụ tâm lại càng khó hơn nhiều. Nếu phát tâm lập nguyện mà không hành thì không thành nguyện lực được. Nếu đã là Bồ Tát sơ phát tâm thì đương nhiên liễu tri: Biển khổ sanh tử vô cùng, vì giải thoát tất cả chúng sanh và cầu nhất thiết chủng trí, nên Bồ Tát phải:
"Thệ tinh tấn,
Quyết hùng tâm,
Chấn ma thiên,
Thành Diệu Giác."
Như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật có dạy:
“Sinh tử thiêu đốt,
Khổ não vô biên.
Phát tâm Bồ Đề,
Tu hành Thánh đạo.
Cứu độ tất cả,
Nguyện thay chúng sinh,
Thọ vô lượng khổ,
Khiến cho chúng sanh
Được đại an lạc”.
Đúng như Kinh Vô Tận Ý, Đức Phật có dạy: “Nếu không vì hóa độ chúng sanh, ta không Phát Tâm Bồ Đề này!” Cho nên phát tâm Bồ Đề này thật là vì cứu độ hết thảy chúng sanh mà nguyện chứng thành Phật quả vậy!
Lại nữa, Bồ Đề Tâm cũng có hai hạng:
1. Nguyện ta đời trước cho đến đời này, có làm những thiện căn gì, xin đem thiện căn ấy ban bố cho tất cả vô biên chúng sanh đều cùng nhau hồi hướng quả vô thượng Bồ Đề, thệ gìn giữ cho nguyện ấy của ta mỗi niệm tăng trưởng chuyển từ đời này qua kiếp khác, sanh vào đâu cũng được thủ hộ của đại Tổng Trì, luôn luôn giữ ở lòng không vì một lẽ gì mà quên mất.
2. Nguyện ta hồi hướng đại Bồ Đề rồi, nhờ thiện căn ấy không sanh vào quốc độ không có Phật, hễ sanh ra thường được cúng dường hết thảy chư Phật.
3. Nguyện ta được sanh vào quốc độ chư Phật rồi, thường được thân cận hầu hạ tả hữu như bóng theo hình, không một giây lát xa rời chư Phật.
4. Nguyện ta được thân cận chư Phật rồi, tùy lòng mong muốn của ta mà chư Phật vì ta thuyết pháp, liền được thành tựu năm pháp thần thông của Bồ Tát.
5. Nguyện ta đã được năm pháp thần thông của Bồ Tát rồi, liền thông đạt giả danh lưu bố của thế đế (chơn lý thế tục) được trí Chánh Pháp đúng như tánh chơn thật mà chứng ngộ đệ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối).
6. Nguyện ta được trí Chánh Pháp rồi, đem tâm thích thú vì chúng sanh thuyết pháp đều khiến cho khai giải "thị giáo lợi hỷ" (khai thị chân giáo lợi lạc hoan hỷ).
7. Nguyện đã khai giải cho chúng sanh được rồi, dùng sức thần thông của Phật, khắp đến mười phương vô tận thế giới cúng dường chư Phật và thỉnh thọ chánh pháp, nhiếp hóa mọi loài chúng sanh.
8. Nguyện ta ở trước chư Phật thỉnh thọ chánh pháp rồi, liền hay tùy theo căn cơ chuyển pháp luân thanh tịnh (thanh tịnh thuyết pháp), mười phương thế giới tất cả chúng sanh nghe ta thuyết pháp, nghe danh diệu của ta, đều được pháp tâm Bồ Đề, xả bỏ hết thảy phiền não.
9. Nguyện khi ta đã làm cho chúng sanh phát tâm Bồ Đề rồi, thường theo dõi hộ trì, trừ bỏ các việc không lợi ích, gây cho chúng sanh vô lượng nguồn vui chơn chánh, xả bỏ thân mạng, tài sản, phụ trách chánh pháp hóa độ chúng sanh.
10. Nguyện khi ta đã phụ trách với chánh pháp, tuy thực hành chánh pháp mà tâm không chấp trước chỗ sở hành; cũng như sự thực hành chánh pháp của các Bồ Tát, không chấp trước chỗ sở hành hay không sở hành, chỉ vì hóa độ chúng sanh mà không xa bỏ chánh nguyện.
Đáp: Là tu 3 thứ tâm: Trực Tâm, Thâm Tâm và Đại Bi Tâm.
1. Trực Tâm, nghĩa là tâm trực niệm chơn như
2. Thâm Tâm, nghĩa là tâm ưa làm các việc lành
3. Đại Bi Tâm, nghĩa là tâm thệ cứu khổ chúng sanh.
1. Tâm được kiên cố
2. Chế ngự được phiền não.
3. Ngăn đón được sự buông lung.
4. Phá trừ được năm điều ngăn che tức là phá trừ ngũ cái.
1. Xa lìa ác tri thức. Ác tri thức hay khuyên người bỏ mất đức chánh tín, lòng mong muốn và sức tinh tấn tối thượng chân chánh, để chạy theo dục vọng thấp hèn.
2. Xa lìa nữ sắc hay nam sắc, không tham đắm dục lạc và những tập tục theo thói đời.
3. Xa lìa ác giác. Ác giác là cảm giác sai lầm; tự quán hình dung sanh tâm tham ái, luyến tiếc, chấp đắm và cho rằng có thể bảo tồn trường cửu.
4. Xa lìa sân nhuế tàn bạo, kiêu căng, ganh ghét, khơi dậy sự tranh tụng, làm rối loạn thiện tâm.
5. Xa lìa sự buông lung, kiêu mạn, biếng nhác, tự ỷ có chút tiểu xảo khinh miệt kẻ khác.
6. Xa lìa sách luận ngoại đạo và những văn chương thêu dệt giả dối của thế tục, không nên tán tụng những lời không phải Phật dạy.
7. Không nên thân cận những kẻ tà kiến, ác kiến.
Đây là 7 pháp gây chướng ngại cực trọng mà Bồ Tát tuyệt đối phải xa lìa.
Nếu muốn chóng đạt Vô Thượng Bồ Đề, nên tu bảy pháp sau đây:
1. Bồ Tát cần phải thân cận Thiện Tri Thức. Thiện Tri Thức là chư Phật, Bồ Tát hoặc hàng Thanh Văn có công năng khiến Bồ Tát an trú thâm nhập pháp tạng và các pháp Ba La Mật, gọi là Bồ Tát Thiện Tri Thức.
2. Bồ Tát nên thân cận người xuất gia, cũng nên thân cận pháp A Lan Nhã, xa lánh nữ sắc hoặc nam sắc và các thị dục, không cùng với người đời làm những điều tục lụy.
3. Bồ Tát nên quán sát hình hài như đất, phân chứa đầy ô uế, phong đàm, nhiệt huyết, không nên tham đắm, nay còn mai mất mỗi ngày bước gần đến cửa chết, nghĩ thế mà nhàm chán cảnh vô thường lo siêng năng tu đạo.
4. Bồ Tát thường tu hạnh nhu hòa, nhẫn nhục, thuận thảo, cung kính và khuyên người khác cũng tu những pháp ấy.
5. Bồ Tát nên tu hành tinh tấn, thường biết, cung kính, phụng thờ Sư Trưởng, thân cận, xót thương những kẻ bần cùng; thấy người nguy khốn, đem thân mình thay thế.
6. Bồ Tát cần phải tu tập Phương Đẳng Đại Thừa Bồ Tát Tạng và thọ trì đọc tụng những pháp Phật thường khen ngợi.
7. Bồ tát phải tu tập đệ nhất nghĩa đế (chân lý tuyệt đối) nghĩa là thật tướng, nhất tướng, vô tướng.
Nếu Bồ Tát muốn mau được quả vị Vô Thượng Bồ Đề phải luôn luôn thân cận thực hành 7 pháp nói trên.
Nguyện cầu Ông phát khởi đại Bồ Đề Tâm, thực hành Bồ Đề Tâm, sớm thâm nhập vào kho tạng bí mật của chư Phật, được Tổng Trì Môn vào thành lớn Viên Giác của chư Phật, đắc Nhất Thiết Chủng Trí, làm lợi ích chân thật cho mình cho người và cho tất cả chúng sanh. Đúng như Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy:
“Muốn biết tất cả mọi Phật pháp,
Hãy mau khởi phát Bồ Đề Tâm.
Tâm này công đức thù thắng nhất,
Chắc chắn đắc Phật trí vô ngại.
Chúng sinh tâm hạnh: Có thể biết,
Cỏi nước, hạt bụi: Cũng rõ thấu.
Biên tế hư không: Đo lường được.
Công đức phát tâm không thể tính.
Phát tâm: Sản sinh Phật ba đời,
Thành tựu an lạc trong thế gian,
Tăng trưởng tất cả thắng công đức,
Vĩnh đoạn tất cả mọi nghi hoặc.
Mở ra tất cả diệu cảnh giới,
Tận trừ hết thảy mọi chướng ngại,
Làm thành tất cả cõi thanh tịnh,
Xuất sinh tất cả trì Như Lai.
Muốn gặp mọi Phật trong mười phương,
Muốn thí vô tận kho công đức,
Muốn diệt khổ não của chúng sinh,
Hãy mau phát khởi Bồ Đề Tâm!"
Thứ Hai, 6 tháng 12, 2021
BỒ TÁT THỰC HÀNH MA NGHIỆP
&
PHÁ TRỪ LƯỚI MA VIÊN CHỨNG BỒ ĐỀ
Đây là một đoạn pháp thoại ngắn mà Sư Phụ Long Viễn đã khai thị cho đệ tử ở Ấn Độ trên sông Ni Liên Thiền.
...
Hỏi: Kính bạch Sư Phụ, chúng con đã phát tâm Bồ Đề quyết đi trên con đường của Bồ Tát để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí. Nguyện xin Sư Phụ từ bi chỉ dạy thế nào là Bồ Tát thực hành những việc của ma? Vì nếu không phân biệt được ma sự với Phật sự thì e rằng đạo nghiệp của chúng con khó thành!
Đáp: Vậy thì các con hãy chánh tâm tác ý lắng nghe, Sư Phụ sẽ vì các con mà ước lược tỏ bày:
Bồ Tát phát tâm Bồ Đề mà không giữ gìn giới hạnh của Bồ Tát, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát phát tâm Bồ Đề mà từ bỏ chúng sanh, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát phát tâm Bồ Đề mà không tu Lục Độ Vạn Hạnh, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát với các nghiệp mà có tạo tác, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát đối với chí nguyện mà có chỗ thọ nhận, chấp giữ, có sự xâm đoạt, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát hành Bồ Tát đạo mà không ly tứ tướng Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả; đó là việc làm của ma.
Bồ Tát tạo tác sở hành mà còn có vọng tưởng thủ trước nơi sở hành ấy, đó là việc làm của ma.
Bồ Tát nếu hành theo tam giải thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, tu tập không buông lung, trụ chấp nơi chỗ thuyết giảng, chỉ dạy của Như Lai, đó là việc làm của ma.
Hỏi: Kính bạch Sư Phụ, làm sao biết Bồ Tát chứng được cứu cánh Bồ Đề?
Đáp: Bồ Tát nếu thiết lập ngôn ngữ quyền biến độ sanh mà không chấp danh tánh thì đó là Bồ Tát chứng được Bồ Đề. Bồ Tát thực hành diệu hạnh nơi tam giải thoát môn Không, Vô Tướng, Vô Tác mà lìa tất cả tạo tác, không có ngã, ngã sở. Vì sao? Vì các pháp không động, không thể phá hoại, không thể thu nhiếp, rốt ráo Không, vắng lặng; đó là Bồ Tát chứng được Bồ Đề.
Hỏi: Kính bạch Sư Phụ, làm sao Bồ Tát có thể phá hoại tất cả võng lưới của ma?
Đáp: Bồ Tát an trụ nơi thắng nghĩa mà thực hành tâm Bồ Đề, khiến các hữu tình tin hiểu và thực hành pháp này, giải thoát tất cả phiền não. Nếu các hữu tình được giải thoát phiền não, thì Bồ Tát phá hoại tất cả võng lưới ma.
Hỏi: Võng lưới ma, có thể phá hoại chăng- kính bạch Sư Phụ?
Đáp: Câu hỏi này từ đâu mà có? Con cật vấn nhưng thiếu trí tuệ hành thâm của Bồ Tát, con không liễu nghĩa diệu ý mà Sư Phụ đã nói ở trên, rằng: "Bồ Tát an trụ nơi thắng nghĩa mà thực hành tâm Bồ Đề" ư?
Hỏi: Xin Sư Phụ từ bi chỉ dạy cho chúng con ạ?
Đáp: Võng lưới của ma chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì khái niệm ma chẳng khác Bồ Đề. Vì sao? Vì tánh của ma và ma quân đều chẳng có, đều không thể được. Đó là Bồ Tát an trụ nơi thắng nghĩa mà thực hành tâm Bồ Đề phá hoại tất cả võng lưới ma.
Hỏi: Kính bạch Sư Phụ, như Kinh Kim Cang nói: "Như Lai không từ đâu đến cũng không đi về đâu, đó gọi là Như Lai", phải không ạ?
Đáp: Đúng như thế!
Hỏi: Vậy Như Lai không có nguồn gốc, nếu đã không có nguồn gốc vậy Bồ Tát phải cầu từ đâu?
Đáp: Phải cầu trong sáu mươi hai kiến chấp của chúng sanh!
Hỏi: Con nghĩ, kiến chấp chúng sanh có ở trong mỗi chúng con, xin Sư Phụ giúp con giải thoát tức thời?
Sư Phụ hỏi: Ai trói buộc con?
Đệ tử đáp: Dạ không ai trói buộc con cả!
Sư Phụ dạy: Đã không ai trói buộc thế con cầu giải thoát làm gì? Các con vốn đã được giải thoát, không còn giải thoát lần nữa thì do đâu mà được giải thoát! Do duyên theo vọng tưởng hư dối mà dẫn đến trói buộc, dứt trừ mọi cấu uế ấy thì gọi là giải thoát.
Tất cả đệ tử có mặt nơi ấy đều phát nguyện y giáo phụng hành, thệ quyết một lòng trượng phu phá rách lưới ma và hoại giặc sanh tử, thệ chứng ngộ tâm Bồ Đề mà mình đã phát, cầu thỉnh Sư Phụ chứng minh. Sư Phụ rất hoan hỷ mỉm cười, đôi mắt Sư Phụ hướng về Đại Bảo Tháp nơi cây Bồ Đề mà thuở xưa Đức Như Lai đã thành đạo, người nhìn chăm chú một lúc, rồi lặng lẽ cuối đầu ... trên bãi cát trắng mênh mông có vài luồn nước nhỏ chảy qua!
Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021
TIÊN ĐẠO
Và
CON ĐƯỜNG KHÔNG HỐI TIẾC
Vào một buổi chiều khi ánh tịch dương dần dần tiến về dãy núi xa xa, xuyên ánh vàng qua từng kẽ lá trong khu rừng ấm cúng, vang vọng tiếng chuông chùa ngân nga như phá tan cảnh giới u minh của muôn loài hàm thức. Những tia nắng vàng soi bóng thấp thoáng hai cô Phật tử xa xa, dưới rừng Xà Cừ, họ đến thăm Sư Phụ Long Viễn, sau khi chào đón hỏi thăm xong, một cô trịnh trọng bạch hỏi:
Hỏi:
- Kính bạch Thầy, từ lâu con đã tu hành theo Tiên đạo, thường đến những nơi có Mẫu mẹ nhập xác để hầu, chỉ mong Mẫu Mẹ thương tình tạo duyên mở căn để con làm lợi ích cho chúng sanh, và rồi con cũng toại nguyện, con đã có một đền thờ Mẫu rất lớn, Mẫu hay nhập xác con cứu độ nhiều người, không biết đường tu Tiên đạo của con như thế có đúng không?
Đáp:
- Thật ra đạo cô tu không phải Tiên đạo như cô hằng nghĩ, đây là cô tu Điển, luyện Điển mà thôi!
Hỏi:
- Vậy Thầy có biết thế nào là Tiên đạo thật sự không?
Đáp:
- Đương nhiên tôi biết rất rõ.
Hỏi:
- Nguyện xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con, Tiên đạo thật sự là thế nào?
Đáp:
- Vậy cô hãy chánh tâm tác ý lắng nghe, tôi sẽ vì cô mà lược nói. Ở trong loài người đây, có những người thiếu căn lành, không đủ duyên gặp những bậc Chân Nhân, Thiện Tri Thức hay những bậc Thánh, cho nên không thể phát sanh chánh kiến, tu tập chánh định. Với tư tưởng muốn trường sinh bất tử, muốn chứng ngộ thần thông, làm những việc phi thường... nên họ đi vào rừng núi thâm sâu hẻo lánh, chỗ không có người tới lui, mỗi người đều có những vọng niệm khác biệt, họ gom tư tưởng lại chuyên chú, kiên cố hình hài, cốt chỉ để đắc đạo thành Tiên. Như Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy có 10 hạng như sau:
1. Địa Hành Tiên: Hạng người chuyên tìm các thứ bổ dưỡng để ăn, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo ăn thành tựu, gọi là Địa Hành Tiên.
2. Phi Hành Tiên: Hạng người chuyên ăn các thứ cỏ cây, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo thuốc thành tựu, gọi là Phi Hành Tiên.
3. Du Hành Tiên: Hạng người chuyên luyện vàng, đá, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo hóa chất thành tựu, gọi là Du Hành Tiên.
4. Không Hành Tiên: Hạng người chuyên vận khí dưỡng tinh, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo khí tinh thành tựu, gọi là Không Hành Tiên. Đạo này xưa ở Trung Quốc rất thịnh hành, họ luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hóa hư và luyện hư hợp đạo. Khi đã đã hợp đạo rồi thì sẽ đắc đạo thành tiên.
5. Thiên Hành Tiên: Hạng người chuyên nhai nuốt nước miếng, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi nhuận đức thành tựu, gọi là Thiên Hành Tiên.
6. Thông Hành Tiên: Hạng người chuyên hút tinh hoa nhật nguyệt, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi hút khí tinh túy thành tựu, gọi là Thông Hành Tiên.
7. Đạo Hành Tiên: Hạng người chuyên luyện bùa chú, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi thuật pháp thành tựu, gọi là Đạo Hành Tiên.
8. Chiếu Hành Tiên: Hạng người chuyên luyện về trầm tư tĩnh niệm, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi công phu tư niệm thành tựu, gọi là Chiếu Hành Tiên.
9. Tinh Hành Tiên: Hạng người chuyên luyện về thủy hỏa giao cấu, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo cảm ứng thành tựu, gọi là Tinh Hành Tiên.
10. Tuyệt Hành Tiên: Hạng người chuyên luyện về biến hóa, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi tâm tĩnh giác thành tựu, gọi là Tuyệt Hành Tiên.
Đó là 10 hạng Tiên đạo, người tu Tiên đạo có lợi ích chân thật không? Đây, cô hãy nghe Đức Phật dạy: "Này A Nan! Những hạng Tiên nhân đó đều ở trong nhân đạo mà tu vọng niệm, chẳng tu chánh giác, chỉ đạt công hiệu về sức sống, thọ ngàn vạn tuổi, ở ẩn trong núi rừng sâu thẳm, hoặc trên đảo giữa biển khơi, cách tuyệt với người đời. Tuy vậy, vì không tu chánh định, vẫn đầy dẫy vọng tưởng, họ vẫn trôi lăn trong luân hồi, khi quả báo hết rồi, lại lưu lạc vào các nẻo."
Những hành giả tu Tiên đạo, do dùng định tâm chuyên chú, khiến cho tưởng thức sanh khởi, do tưởng thức sanh khởi câu hữu với hành uẩn nên biến hiện ra cảnh giới "Duy tâm sở hiện" mà thôi. Cô tu Điển có phần cũng giống như thế. Tuy nhiên dù đã đắc đạo thành Tiên cũng không thể thoát khỏi bàn tay của Vô thường sát quỷ, vẫn triển chuyển trong lục đạo luân hồi; huống chi pháp tu Điển của cô? Nếu Mẫu mà cô tin tưởng có thần lực lớn không thể suy lường, thế thì tại sao lại mượn thân người phàm mà nhập xác? Cô cần phải tư duy với trí tuệ! Đạo là con đường đi, chúng ta phải đi trên nó, đừng để nó đồng hóa với mình và chuyển mình mà mình phải biết chuyển nó. Tuy nhiên có rất nhiều con đường để chúng ta lựa chọn. Hãy lựa chọn một con đường với con mắt trí tuệ! Một con đường mà chúng ta bước đi trên nó một cách thanh thản, khinh an, an lạc, hỷ lạc, vô sự, giải thoát khỏi tất cả sầu bi khổ ưu não, làm chủ bốn sự thật là sanh già bệnh chết, thoát khỏi lục đạo luân hồi, chấm dứt tái sanh. Đây là con đường mà tôi đang đi, con đường mà tôi đang đi là con đường không bao giờ hối tiếc!
Sau đó, hai cô Phật tử dường như đã nhận định được con đường mình cần phải đi, cô rơi lệ và đảnh lễ Sư Phụ lui ra.