ỨC CỐ NHÂN
(Tưởng niệm vị Rinpoche thân hữu đã thị tịch)
Gió thổi canh đi vạn lý sầu
Chiều buông theo lá cuốn tình đau
Trời Không vang tiếng hồi chuông vọng
Cố nhân biền biệt bóng về đâu?
__ೋ۞ Thích Long Viễn ۞ೋ__
"Vạn Pháp Tùy Duyên" nếu đã hữu duyên...hãy dừng chân mà nghe tôi kể: Thầy tôi (Lương Sơn Long Viễn, Chùa Phật Đảnh Bảo Vương, T.P. Nha Trang- Khánh Hòa) ngay từ thuở ấu thơ luôn ấp ủ giấc mơ đi tìm Chánh Pháp và rồi Người đã ra đi...hiến trọn đời mình cho hạnh phúc chúng sanh ...những chặn đường Người đi đều thấm đẫm nước mắt...Blog nhỏ này...Tôi xin lưu lại những câu chuyện về Người, góp nhặt lời Người dạy...đó là những lần tôi được nghe khi có dịp về thăm nơi trú xứ- núi rừng bình yên ấy...
ĐẠI BỒ ĐỀ TÂM
(Hùng Chí Đại Trượng Phu)
---_ೋ۞ --------۞------- ۞ೋ---
Chấn thế hùng tâm chí nam nhi
Hoành xuất tam giới, phá tam kỳ
Thệ không thối chuyển Bồ Đề nguyện
Ân Phật báo đền, quyết có khi.
Ma thiên diệt thế nhấn phàm gian
Ngũ trược sinh linh khổ ai màng?
Mạt thế, thế thời sao mạt thế?
Vô văn mặt kệ, nó chẳng màng!
Khí tượng tung trời giáng oai long
Há miệng cuồng phong nuốt vào lòng
Bốn bể vẫy vùng tan khí hải
Bước chân dặm nát cõi tây đông.
Sấm chớp tung trời quyết lật ngang
Đảo ngược càn khôn cứu thế gian
Bi tâm hòa thể song linh chiếu
Huyết cạn, thân tan, sá - chẳng màn!
Ma ý rừng thiêng cuốn mọi người
Ta thề sống chết với các ngươi
Kiếm trí phá tan rừng ma ý
Đại nguyện hóa thân tế độ đời!
Nhân sinh hề!
Tây Phương tiếp độ về!
Luân hồi hề!
Biến tri niệm quay về!
Khuấy đảo trùng dương cuộc hóa sanh
Hóa sanh, sanh hóa bến phong trần
Phong trần, đại mộng phi lai thể
Lai thể vô sanh với chân thân.
Chân thân vô khứ diệc vô lai
Vô lai! Người hỏi: "Ta là ai?"
Là ai? Ai biết? Nào ai biết?
Ai biết? Ta đi trong đêm dài!
Đêm dài vô thỉ đến vô chung
Vô chung tâm thể hóa không trung
Không trung lệ cháy ôi, tình cháy!
Tình cháy thiên thu kiếp tương phùng!
Núi Đà Lạt 27/05/2022
__ೋ۞ Thích Long Viễn ۞ೋ__
XÂY DỰNG HÔN NHÂN HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Một hôm có một cặp tình nhân đến thăm chùa, có nhân duyên được gặp Sư Phụ Long Viễn, sau khi được chú thị giả mời ngồi uống nước, cô bạn gái của anh ấy chấp tay thưa hỏi Sư Phụ:
- Kính bạch Thầy, chúng con sắp cưới nhau, con không biết trong nhà Phật có dạy về hôn nhân không ạ?
Sư Phụ bê ly nước lên uống một ngụm, sau đó đặt ly nước xuống bàn, Ngài đưa ánh mắt từ ái nhìn đôi tình nhân nam nữ, rồi Sư Phụ chậm rãi nói:
- Có, khi Đức Phật còn tại thế, Đức Thế Tôn có dạy về bốn kiểu hôn nhân, mà một gia chủ cần phải biết để xây dựng hạnh phúc gia đình!
Cô gái lại thưa hỏi tiếp:
- Xin Thầy cho chúng con biết bốn kiểu hôn nhân mà Đức Phật đã dạy được không ạ?
- Được, anh chị hãy chánh tâm tác ý lắng nghe!
Sau đó Sư Phụ dạy:
Một thời Thế Tôn đang du hành trong nhân gian, có lần Ngài đi trên con đường giữa Madhura và Veranja, Ngài rời khỏi con đường ấy, rồi đến ngồi dưới gốc cây mà các gia chủ ở đấy đã soạn sẵn, bấy giờ Đức Thế Tôn dạy các gia chủ về bốn kiểu hôn nhân như sau:
1. Một kẻ đê tiện sống chung với một kẻ đê tiện.
2. Một kẻ đê tiện nam sống chúng với một Thiên nữ.
3. Một Thiên nam sống chúng với một kẻ đê tiện nữ.
4. Một Thiên nam sống chung với một Thiên nữ.
Cô gái chấp tay thưa:
- Xin Thầy có thể nói rõ hơn được không?
Sư phụ đáp: Anh chị hãy lắng nghe!
- Thế nào là: "Một kẻ đê tiện sống chung với một kẻ đê tiện?" Ở đây, người chồng sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, đắm say rượu chè, ác giới, tánh ác, không có đạo đức, sống ở gia đình với một tâm bị cấu uế xan tham chi phối, nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu. Còn người vợ của anh ta cũng y hệt như thế. Đó là: "Một kẻ đê tiện sống chung với một kẻ đê tiện."
- Thế nào là: "Một kẻ đê tiện nam sống chúng với một Thiên nữ?" Ở đây, người chồng người chồng sát sanh, trộm cắp, đam mê tà dâm, nói láo, đắm say rượu chè, ác giới, tánh ác, vô đạo đức, sống ở gia đình với một tâm bị cấu uế xan tham chi phối, nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu, không ti nhân quả tội phước. Nhưng người vợ của anh ta thì từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu chè, có giới, thiện tánh, sống ở gia đình mà tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, không có nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu, tin sâu nhân quả tội phước, sống có đạo đức. Đó là: "Một kẻ đê tiện nam sống chúng với một Thiên nữ"
- Thế nào là: "Một Thiên nam sống chúng với một kẻ đê tiện nữ?" Ở đây, người chồng từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm sống chung thủy với vợ, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu chè, từ bỏ ăn chơi trác tán, có giới, thiện tánh, sống ở gia đình mà tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, không có nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu, tin sâu nhân quả tội phước, sống có đạo đức, mọi người ai cũng kính yêu. Còn người vợ thì ngược lại, sát sanh, trộm cắp, đam mê tà dâm, nói láo, đắm say rượu chè, ăn chơi trác tán, ác giới, tánh ác, sống ở gia đình với một tâm bị cấu uế xan tham chi phối, nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu, không ti nhân quả tội phước, sống vô đạo đức. Đó là: "Một Thiên nam sống chúng với một kẻ đê tiện nữ."
Thế nào là: "Một Thiên nam sống chung với một Thiên nữ? Ở đây, người chồng và người vợ đều từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm sống chung thủy với nhau, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu chè, từ bỏ ăn chơi thác loạn, có giới, thiện tánh, sống yêu thương san sẻ cho nhau, sống ở gia đình mà tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, không có nhiếc mắng chửi rủa các bậc chánh tu, tin sâu nhân quả tội phước, sống có đạo đức, mọi người ai cũng kính yêu. Đó là "Một Thiên nam sống chung với một Thiên nữ."
- Có bốn kiểu hôn nhân như thế! Anh chị thích kiểu hôn nhân nào?
Cả hai đều đáp:
- Dạ, chúng con đều thích kiểu hôn nhân thứ tư!
Sư Phụ dạy:
- Nếu vợ chồng tin sâu nhân quả tội phước, thọ nhận Tam quy và Ngũ giới, hiểu rõ lý vô thường... thì cuộc sống vợ chồng sẽ rất an lành, hạnh phúc, đời sống hôn nhân sẽ có nhiều phúc lạc. Còn ngược lại, thì cuộc sống gia đình sẽ dễ tan vỡ. Khi yêu nhau thì ai cũng sống trong mộng, cưới nhau về rồi thì tỉnh mộng và vỡ mộng. Vì sao? Vì những thói hư tật xấu của người kia dần hé lộ, những gì thầm kín sẽ được phơi bày... lại khi có con rồi, thì áp lực cuộc sống đè nặng lên vai, trăm thứ phải lo lắng: Cơm, áo, gạo, tiền... dẫn đến xúc não, hôn nhân dễ đổ vỡ...
Người thanh niên, chấp tay thưa hỏi:
- Kính bạch Thầy, Đức Phật có dạy thêm và phương cách khiến cho đời sống hôn nhân gia đình được đảm bảo hạnh phúc không ạ?
Sư Phụ đáp: Có! Anh chị hãy tác ý lắng nghe! Muốn đảm bảo đời sống gia đình hạnh phúc thì: Có năm cách người chồng đối xử với vợ: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ.
Lúc ấy cô gái rất hớn hở, nhanh miệng thưa:
- Dạ, con thích những lời dạy này của Đức Phật! Sau đó nhìn người tình, nhoẻn miệng cười và nói yêu:
- Anh phải làm theo lời Đức Phật dạy nghe chưa?
Anh thanh niên nhẹ cười, sau đó nhìn Sư Phụ và thưa:
- Dạ, còn vợ thì đối với chồng thế nào ạ?
Sư Phụ từ tốn nói:
- Có năm cách người vợ yêu thương chồng mình: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.
Anh ta liền đưa mắt nhìn cô gái, vừa nói vừa cười nhẹ, với vẻ tâm đắc:
- Đó! Em nghe chưa!
Sau đó Sư Phụ dạy tiếp:
- Lại nữa, chị phải nghe cho kỹ, trong Kinh Tăng Chi, Đức Phật có dạy: Nữ nhân thành tựu bốn pháp thì sẽ chiến thắng ở đời này, đời này rơi vào tầm tay của nữ nhân. Bốn pháp đó là gì? Nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa.
Thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc? Ở đây, nữ nhân phàm có những công việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.
Thế nào là nữ nhân biết thâu nhiếp các người phục vụ? Ở đây, trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần của mình.
Thế nào là nữ nhân sở hành vừa ý chồng? Tức là, những gì người chồng không vừa ý, dầu cho có vì sanh mạng, nàng cũng không làm.
Thế nào là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được? Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, phòng hộ chúng, giữ gìn để khỏi bọn ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại...
Nếu nữ nhân thành tựu bốn pháp trên sẽ là người chiến thắng ở đời. Ðời này rơi vào trong tầm tay của mình.
Lại nữa nếu lại thành tựu bốn pháp này, sẽ là người thành công, là người chiến thắng ở đời, tất cả cái gì trong đời đều sẽ rơi vào sự kiểm soát và tầm tay của mình. Thế nào là bốn?... Tức là:"Nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ."
Thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng tin? Nghĩa là, nữ nhân có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. “ Thành tựu tịnh tín vô biên với Như Lai.
Thế nào là nữ nhân đầy đủ giới đức? Tức là nữ nhân ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu chè.
Thế nào là nữ nhân đầy đủ bố thí? Nữ nhân sống ở gia đình với tâm tư từ bỏ cấu uế của xan tham, bố thí rộng rãi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng của mình, bố thí với tâm hỷ xả.
Thế nào là nữ nhân đầy đủ trí tuệ? Nữ nhân có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
Thành tựu bốn pháp này, thì nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào trong tầm tay của mình. Như Đức Phật có kệ nói:
"Khéo làm các công việc
Thâu nhiếp người phục vụ
Sở hành vừa ý chồng
Giữ gìn của cất chứa
Ðầy đủ tín và giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
Ðến đời sau an lành
Như vậy là tám pháp
Nữ nhân có đầy đủ
Ðược gọi bậc có giới
Trú pháp, nói chân thật
Ðủ mười sáu hành tướng
Thành tựu tám chi phần
Nữ cư sĩ như vậy
Với giới hạnh đầy đủ
Sanh làm vị Thiên nữ
Với thân thật khả ái."
Lúc ấy, anh thanh niên quay nhìn người yêu của mình với ánh mắt trìu mến vô cùng, anh lên tiếng:" Đức Phật quả thật trí tuệ vô song! Em phải nhớ kỹ lời Thầy dạy nghen! Để anh mãi mãi ở trong tầm tay của em, và anh cũng tự nguyện mãi mãi ở trong tầm tay của em. Hy vọng em sẽ cho anh một ngôi nhà thật hạnh phúc, chúng ta cùng xây dựng nên cuộc sống tràng đầy phúc lạc."
Đoạn nói xong, hai người đều chắp tay quay nhìn Sư Phụ, anh thanh niên kính cẩn thưa:" Con thành tâm cảm ơn Thầy rất rất nhiều, đã chỉ dạy chúng con xây dựng nên hạnh phúc vĩnh cửu của mình, chúng con cũng cảm tạ ân đức và lòng từ bi vô hạn lượng của Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ ràng, để chúng con biết được đạo lộ mà chúng con phải đi, không những xây dựng hạnh phúc đời này, mà còn cho đời sau nữa ạ!"
Sư Phụ từ tốn nhìn đôi tình nhân trẻ, với tình thương bao phủ như một người cha, trìu mến nhìn con mình. Sau đó Sư Phụ chậm rãi nói tiếp:
- Nếu vợ chồng muốn được tình yêu trọn vẹn đời này và tái hợp trong đời sau thì cả hai phải có cùng một đức tin, cùng giữ gìn giới hạnh, cùng tu bố thí, cùng tu thiền định, cùng dùng trí tuệ để ứng biến trong đời sống gia đình, xem người kia như chính một nửa thân mình thật sự, cùng hi sinh cho nhau, cùng biết lắng nghe, cùng biết chia sẻ, cùng biết tùy thuận và bằng lòng với những cái mình hiện có. Nếu anh chị làm được như thế thì đời này hạnh phúc, đời sau tái hợp duyên lành ở cõi trời. Đúng như trong Kinh Tăng Chi, Đức Phật có dạy:
"Cả hai, tín, bố thí,
Sống chế ngự, chánh mạng,
Cả hai vợ chồng ấy,
Nói lời thân ái nhau,
Ðời sống nhiều hạnh phúc,
Chờ đợi hai người ấy.
Kẻ thù không thích ý,
Cả hai giới hạnh lành,
Ở đây sống theo Pháp,
Giữ cấm giới đồng đẳng,
Cả hai giới hạnh lành,
Sống hoan hỷ Thiên giới,
Hân hoan được thỏa mãn,
Ðúng với điều sở cầu."
Sư Phụ nói xong bài Kệ trong Kinh, cặp tình nhân ấy vô cùng hớn hở, tâm đầy hỷ lạc, cùng nhau đảnh lễ Sư Phụ, cùng hứa sẽ đến chùa thọ Tam quy Ngũ giới... rồi từ biệt ra về
_CHỨNG NGỘ TRI KIẾN NHƯ THẬT VỀ CÁC PHÁP_
Một hôm có một hành giả Tỷ Kheo tu theo hệ phái Nguyên thủy Phật giáo, đến thăm Sư Phụ Long Viễn. Sau khi chào đón hỏi thăm xong, hai vị cùng nhau uống trà, đến lúc gần ra về thì vị Tỷ Kheo kia sửa lại y áo rồi trịnh trọng thưa hỏi:
- Làm sao để đạt được tri kiến như thật về các pháp?
- Hãy tu tập Chỉ và Quán!
- Chỉ và Quán được cảm nghiệm ở đâu?
- Ở nơi thân và tâm!
- Nếu thân và tâm được tu tập, có lợi ích gì?
- Bất động trước các pháp!
- Bất động trước các pháp, hạnh thâm là gì?
- Nghĩa là bất động tâm định!
- Tâm định diệu ý qua hành pháp như thế nào?
- Sáu căn xúc cảnh tâm chẳng duyên theo!
- Sáu căn xúc cảnh tâm chẳng duyên theo, gốc diệu hành ở đâu?
- Ở nơi Thánh Giới!
- Thế nào là Giới?
- Ngừa quấy, dứt ác không làm trở lại!
- Như vậy thành tựu Thánh Giới thì viên mãn Chỉ và Quán đúng không?
- Đúng như thế!
- Như thế thì, hạnh thâm của Chỉ cảm nghiệm lợi ích gì?
- Tâm được nhu nhuyến, kham nhậm và chói sáng!
- Tâm được nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, cảm nghiệm được lợi ích thù thắng gì?
- Tất cả tham ái được đoạn tận!
- Còn hạnh thâm của Quán cảm nghiệm được lợi ích gì?
- Trí tuệ được phát triển!
- Trí tuệ phát triển, hành giả cảm nghiệm được lợi ích gì?
- Tất cả vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi!
- Thế thì, sự đoạn diệt của tham dục, rốt ráo cảm nghiệm lợi ích chân thật gì?
- Tâm được giải thoát!
- Sự đoạn diệt của vô minh, rốt ráo cảm nghiệm lợi ích chân thật gì?
- Tuệ giải thoát!
- Tâm và tuệ giải thoát rốt ráo, hành giả thành tựu cứu cánh là gì?
- Cứu cánh Phạm Hạnh, thể nhập Niết Bàn ngay trong hiện tại!
Những câu hỏi mà vị Tỷ kheo đặt ra, Sư Phụ đã trả lời một cách vắn tắt; vị Tỷ Kheo ấy, sau mỗi câu hỏi đều gật đầu cảm thán liễu nghĩa, với ánh mắt sáng rực... Sau đó chí thành đảnh lễ Sư Phụ, nguyện sẽ cố gắng thực hành thành tựu cứu cánh Phạm Hạnh ngay trong đời này, để báo đền ân đức tri ngộ hôm nay!
BẪY MỒI
Dòng sông nước chảy lững lờ
Trong sông cá nhảy nhỡn nhơ gợi tình
Mồi ngon vẫy gọi cá xinh
Chao ôi, thèm khát trong mình thịt rung
Đạp sóng há miệng hớp tung
Nuốt xuống cho đã ... nghìn trùng đắng cay!
Ông câu giật lấy cần ngay
Đem về hấp, nướng... nhậu say vui cười.
Cuộc đời cũng thế ai ơi
Ta như con cá trong đời mà thôi
Ma vương quyền lực ngút trời
Cần câu Ngũ dục (*) giật người ái tham
Một khi nuốt phải chớ than
Luân hồi muôn kiếp, ai đan đoạn trường?
Sáu nẻo (**) không chỗ tựa nương
Tam đồ (***) ác báo khôn lường gian nan
Địa ngục, Ngạ quỷ, hầm than
Chảo dầu, lửa đốt, nướng ram tan tành
Thân này triển chuyển xoay quanh
Không bao giờ thoát, đành rành quả nhân.
Thế Tôn xuất thế thuyết nhân
Diệu pháp chân thật, nghìn phần không sai
Phá tan lưới ái đọa đày
Phá tan ma giới vượt ngay luân hồi
Vô thường sát quỷ khôn lời
Diêm Vương, Nghiệp Kính (****), chấp tay lạy mình
Ta về soi bóng u minh
Hào quang tỏa chiếu chúng sinh nương nhờ
Ai ơi chớ có lập lờ
Ai ơi chớ có hững hờ Pháp duyên
Quyết ngay, ngay quyết liền liền
Quyết như sấm sét tu liền đi thôi
Khổ thay kiếp sống luân hồi
Thương thay những kẻ nổi trôi biển tình
Thương mình mình phải cứu mình
Thương mình mình phải đoạn tình ái tham
Thương mình buông bỏ xan tham
Thương mình mình quyết Niết Bàn chứng thôi
Hỡi ôi! Nhân thế luân hồi
Tình trong như cắt bời bời ruột gan
Đêm đêm lặng ngắm quan san
Trông trường huyễn mộng mơ màng giấc thu
Đưa tay vén áng mây mù
Trông trăng, trăng sáng soi người ngủ say
Mắt trong ngọc biếc sương bay
Lá rơi theo gió ai hay sự tình?
Tình tôi một bóng một hình
Tâm đăng rạng chiếu phù sinh giữa đời
Tình tôi nở giữa luân hồi
Chờ ai ghé lại cùng ngồi ngắm trăng
Ánh trăng sáng giữa phàm nhân
Ánh trăng giác chiếu đôi bờ tử sanh
Quay về nhận lại thật nhanh
Bội trần hiệp giác, trình anh: "Không phần!"
Núi Đà Lạt đêm 08/05/2022
_ೋ۞ Thích Long Viễn ۞ೋ_
1. Sắc dục : Ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt.
2. Thinh dục : Ham muốn tiếng hay, dịu ngọt….
3. Hương dục : Ham muốn mùi thơm ngạt ngào….
4. Vị dục : Ham muốn đồ ăn thức uống ngon ngọt…
5. Xúc dục : Ham muốn sự đụng chạm mềm dịu….
+ Ngũ dục còn có 5 thứ sau :
1. Tài dục : Ham muốn của, vàng ngọc.
2. Sắc dục : Tham sắc đẹp mỹ miều.
3. Danh dục : Tham muốn địa vị cao sang, tiếng tốt.
4. Thực dục : Tham muốn thức ăn ngon nhiều.
5. Thùy dục : Tham muốn ngủ nghỉ nhiều.
Ngũ dục cũng kêu là Ngũ độc tiển (năm mũi tên độc hại) ngũ dục là 5 món dục của chúng sanh, từ súc sanh đến nhơn loài thần tiên, nếu mình không điều phục ngũ căn (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) để cho sa đắm ngũ dục thì thất lạc thiện căn, sa vào nẻo ác lụy. Tham đắm ngũ dục tức cuộc đời bị trói buộc bởi năm thứ độc hại ham muốn.
(**). Sáu nẻo: Sáu nẻo luân hồi còn gọi là lục đạo luân hồi, tức là vòng quanh trong 6 đường sinh tử. Sáu đường: địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, người, trời và a tu la. chúng sinh vì tạo các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác, nên phải trôi lăn mãi trong vòng sinh tử mà chịu khổ trong 6 đường, nên gọi là lục đạo luân hồi.
(***). Tam đồ: Tam đồ cũng còn gọi là tam ác đạo nghĩa là ba đường dữ, gồm Hỏa đồ, Đao đồ và Huyết đồ, đồng nghĩa với Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh của ba đường ác, do vì các nghiệp ác của thân, miệng và ý gây ra nên dẫn đến kết quả sanh vào ba đường này:
1. Hỏa đồ (tức đường Địa ngục): do vì chúng sanh của cõi này thường chịu nỗi khổ bức bách, nóng bỏng của lò sôi, vạc cháy, hoặc do vì nơi ấy lửa tích tụ rất nhiều, nên có tên gọi là Hỏa đồ.
2. Đao đồ (tức đường Ngạ quỷ): do chúng sanh ở cõi này thường chịu cái khổ bức bách của đao gậy nên có tên gọi như vậy.
3. Huyết Đồ (tức đường Súc sanh): do chúng sanh ở cõi này tranh giành cấu xé lẫn nhau, người mạnh lấn áp kẻ yếu, uống máu ăn thịt nhau, nên có tên gọi như vậy.
(****). Nghiệp Kính: Gọi đầy đủ là Nghiệp Kính Đài, chúng sanh sau khi chết đọa vào địa phủ, đối diện là Nghiệp Kính Đài bao nhiêu nghiệp thiện ác đều hiện rõ hết trong ấy, chúng sanh không thể chối cãi trước Vua Diêm Vương, thuận theo nghiệp mà lãnh thọ quả báo.
-ഛ HOÀI CẢM ---
Cuối trời mây khuất bóng
Lặng lẽ bến cô liêu
Sóng vỗ khua mái chèo
Thuyền trôi trên sông vắng.
Ông câu buông cần xuống
Cá vàng không thấy đâu
Trăng lặng trên mái cầu
Hư không màu hợp thể.
Con về lòng ngấn lệ
Theo đường vắng mưa rơi
Lạnh quá phố không người
Mình con lê chân bước.
Cuộc đời ai biết trước
Vô thường thoáng qua tay
Duyên sinh thế gian này
Hợp tan màu ly biệt.
Dòng thư tình con viết
Ngập tràng huyết lệ châu
Thương nhớ trắng mái đầu
Về cố hương xa vắng.
Ngày con đi biển lặng
Qua mấy rặng quan san
Đi trong ánh hào quang
Ngập tràng hư không giới.
Hoa rơi, Nguyệt Quang chói...
Với Phạm âm diệu kỳ
In khắc bóng Từ Bi
Trong Đại Tâm vô tận.
Hương nồng vòng tay ấm
Ru con xuống hồng trần
Cỡi sóng vỗ phong vân
Ứng thân vào nhân thế.
Trăng tàn đã mấy độ
Thu đến rồi đông sang
Ơi, con sóng võ vàng
Vỗ tan lòng lữ khách!
Đêm từng đêm con khóc
Cho lệ nhuốm thế gian
Hương lệ gởi Lạc Bang
Cha già- Người có biết?
Dòng thư này con viết
Nặng hạt mưa rơi rơi
Mưa rơi hòa lệ rơi
Trong bóng đêm vô tận.
Thế gian đầy trường hận
Dục ái đốt hữu tình
Con quyết đem quang minh
Sáng soi lòng sanh chúng.
Chí trượng phu hùng dũng
Bồ Đề Tâm phát sinh
Thệ kiên quyết một mình
Phá tan rừng ma ý.
Đại Tâm chưa phỉ chí
Lại phải thuận thế gian
Độ Tăng, kiến Đạo Tràng
Báo đền ân Đức Phật.
Lòng chua cay chất ngất
Trông những kẻ phũ phàng
Con có mang thế gian
Nuốt vào tâm tan biến?
Hận thù này ai khiến
Muôn cách họ hại con?
Mỉm cười với lòng son
Mà ruột đau như cắt.
Vì Đại Tâm dẫn dắt
Vì thương họ như con
Vì sóng ái dập dồn
Nhấn chìm kiếp sanh chúng.
Con về lòng rơi rụng
Theo từng bước thế nhân
Lệ cháy cả hồng trần
Nhớ cố hương xa ấy...
Cõi nhân sinh ai khuấy
Mà ăn nuốt lẫn nhau?
Ôi, gian thế một màu
U minh bao giờ tắt?
Ruột gan con quặn thắt
Thân muốn vỡ muôn phần
Phần gởi cho cố nhân
Phần nhập hư không giới.
Phủ trùm chúng sanh giới
Khiến họ phát Bồ Đề
Vượt thoát nẻo u mê
Đồng sanh về An Dưỡng.
Đồng chí tâm hướng thượng
Đồng tu hạnh Phổ Hiền
Đồng độ hết nhân thiên
Đồng chứng thành Phật quả.
Qua song từng chiếc lá
Nhẹ rơi theo bóng đêm
Sương trắng phủ qua thềm
Đèn soi người không bóng.
Tình ơi! Tình dậy sóng!
Người ơi! Người biết không?
Tình ơi! Tình bão dông!
Qua mấy mùa trái chín.
Tình ơi! Tình câm nín!
Tình vỡ với hư không
Tình ơi! Tím ngập lòng
Tình cháy hồng muôn kiếp?
Tình ơi! Bao giờ khép?
Cho nước mắt ngừng tuôn
Cho chết cả suối nguồn
Đại Bi tâm con phát?
Đêm nay sương nặng hạt
Phủ kín một trời đau
Phủ cả không gian sầu
Trong bóng đêm vô tận.
Phù sinh trường đại mộng
Máu lệ nhuốm Ta Bà
Hồn tan theo ngày qua
Nhớ cố hương xa quá!
...
Ấn Độ đêm 17/3/2022
_ೋ۞ Thích Long Viễn ۞ೋ_
1. Nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật.
2. Nhớ ơn cha mẹ.
3. Nhớ ơn sư trưởng.
4. Nhớ ơn thí chủ.
5. Nhớ ơn chúng sanh.
6. Nhớ khổ sanh tử.
7. Tôn trọng linh tánh của mình.
8. Sám hối nghiệp chướng.
9. Cầu sanh Tịnh độ.
10. Vì mong muốn làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.
Mười thứ này Ông có thể tìm hiểu và nguyên cứu trong Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Thật Hiền Đại Sư để liễu tri rõ hơn, nếu có gì không hiểu thì ông có thể đến hỏi tôi, tôi sẽ vì Ông mà phân tích rõ.
Lại nữa, Bồ Đề Tâm có hai loại:
1. Một là nguyện Bồ Đề Tâm.
2. Hai là trụ Bồ Đề Tâm.
Nghĩa là bước đầu tiên Bồ Tát phải phát tâm lập nguyện, sau đó an trụ trong tâm nguyện đã phát mà hành thâm. Như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: "Này Thiện nam tử! Có chúng sanh ở trong cõi chúng sanh mà nguyện chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm khó được! Có chúng sanh trụ vào A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm khó được!" Phát tâm đã khó mà trụ tâm lại càng khó hơn nhiều. Nếu phát tâm lập nguyện mà không hành thì không thành nguyện lực được. Nếu đã là Bồ Tát sơ phát tâm thì đương nhiên liễu tri: Biển khổ sanh tử vô cùng, vì giải thoát tất cả chúng sanh và cầu nhất thiết chủng trí, nên Bồ Tát phải:
"Thệ tinh tấn,
Quyết hùng tâm,
Chấn ma thiên,
Thành Diệu Giác."
Như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật có dạy:
“Sinh tử thiêu đốt,
Khổ não vô biên.
Phát tâm Bồ Đề,
Tu hành Thánh đạo.
Cứu độ tất cả,
Nguyện thay chúng sinh,
Thọ vô lượng khổ,
Khiến cho chúng sanh
Được đại an lạc”.
Đúng như Kinh Vô Tận Ý, Đức Phật có dạy: “Nếu không vì hóa độ chúng sanh, ta không Phát Tâm Bồ Đề này!” Cho nên phát tâm Bồ Đề này thật là vì cứu độ hết thảy chúng sanh mà nguyện chứng thành Phật quả vậy!
1. Nguyện ta đời trước cho đến đời này, có làm những thiện căn gì, xin đem thiện căn ấy ban bố cho tất cả vô biên chúng sanh đều cùng nhau hồi hướng quả vô thượng Bồ Đề, thệ gìn giữ cho nguyện ấy của ta mỗi niệm tăng trưởng chuyển từ đời này qua kiếp khác, sanh vào đâu cũng được thủ hộ của đại Tổng Trì, luôn luôn giữ ở lòng không vì một lẽ gì mà quên mất.
2. Nguyện ta hồi hướng đại Bồ Đề rồi, nhờ thiện căn ấy không sanh vào quốc độ không có Phật, hễ sanh ra thường được cúng dường hết thảy chư Phật.
3. Nguyện ta được sanh vào quốc độ chư Phật rồi, thường được thân cận hầu hạ tả hữu như bóng theo hình, không một giây lát xa rời chư Phật.
4. Nguyện ta được thân cận chư Phật rồi, tùy lòng mong muốn của ta mà chư Phật vì ta thuyết pháp, liền được thành tựu năm pháp thần thông của Bồ Tát.
5. Nguyện ta đã được năm pháp thần thông của Bồ Tát rồi, liền thông đạt giả danh lưu bố của thế đế (chơn lý thế tục) được trí Chánh Pháp đúng như tánh chơn thật mà chứng ngộ đệ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối).
6. Nguyện ta được trí Chánh Pháp rồi, đem tâm thích thú vì chúng sanh thuyết pháp đều khiến cho khai giải "thị giáo lợi hỷ" (khai thị chân giáo lợi lạc hoan hỷ).
7. Nguyện đã khai giải cho chúng sanh được rồi, dùng sức thần thông của Phật, khắp đến mười phương vô tận thế giới cúng dường chư Phật và thỉnh thọ chánh pháp, nhiếp hóa mọi loài chúng sanh.
8. Nguyện ta ở trước chư Phật thỉnh thọ chánh pháp rồi, liền hay tùy theo căn cơ chuyển pháp luân thanh tịnh (thanh tịnh thuyết pháp), mười phương thế giới tất cả chúng sanh nghe ta thuyết pháp, nghe danh diệu của ta, đều được pháp tâm Bồ Đề, xả bỏ hết thảy phiền não.
9. Nguyện khi ta đã làm cho chúng sanh phát tâm Bồ Đề rồi, thường theo dõi hộ trì, trừ bỏ các việc không lợi ích, gây cho chúng sanh vô lượng nguồn vui chơn chánh, xả bỏ thân mạng, tài sản, phụ trách chánh pháp hóa độ chúng sanh.
10. Nguyện khi ta đã phụ trách với chánh pháp, tuy thực hành chánh pháp mà tâm không chấp trước chỗ sở hành; cũng như sự thực hành chánh pháp của các Bồ Tát, không chấp trước chỗ sở hành hay không sở hành, chỉ vì hóa độ chúng sanh mà không xa bỏ chánh nguyện.
1. Trực Tâm, nghĩa là tâm trực niệm chơn như
2. Thâm Tâm, nghĩa là tâm ưa làm các việc lành
3. Đại Bi Tâm, nghĩa là tâm thệ cứu khổ chúng sanh.
1. Tâm được kiên cố
2. Chế ngự được phiền não.
3. Ngăn đón được sự buông lung.
4. Phá trừ được năm điều ngăn che tức là phá trừ ngũ cái.
1. Xa lìa ác tri thức. Ác tri thức hay khuyên người bỏ mất đức chánh tín, lòng mong muốn và sức tinh tấn tối thượng chân chánh, để chạy theo dục vọng thấp hèn.
2. Xa lìa nữ sắc hay nam sắc, không tham đắm dục lạc và những tập tục theo thói đời.
3. Xa lìa ác giác. Ác giác là cảm giác sai lầm; tự quán hình dung sanh tâm tham ái, luyến tiếc, chấp đắm và cho rằng có thể bảo tồn trường cửu.
4. Xa lìa sân nhuế tàn bạo, kiêu căng, ganh ghét, khơi dậy sự tranh tụng, làm rối loạn thiện tâm.
5. Xa lìa sự buông lung, kiêu mạn, biếng nhác, tự ỷ có chút tiểu xảo khinh miệt kẻ khác.
6. Xa lìa sách luận ngoại đạo và những văn chương thêu dệt giả dối của thế tục, không nên tán tụng những lời không phải Phật dạy.
7. Không nên thân cận những kẻ tà kiến, ác kiến.
Đây là 7 pháp gây chướng ngại cực trọng mà Bồ Tát tuyệt đối phải xa lìa.
Nếu muốn chóng đạt Vô Thượng Bồ Đề, nên tu bảy pháp sau đây:
1. Bồ Tát cần phải thân cận Thiện Tri Thức. Thiện Tri Thức là chư Phật, Bồ Tát hoặc hàng Thanh Văn có công năng khiến Bồ Tát an trú thâm nhập pháp tạng và các pháp Ba La Mật, gọi là Bồ Tát Thiện Tri Thức.
2. Bồ Tát nên thân cận người xuất gia, cũng nên thân cận pháp A Lan Nhã, xa lánh nữ sắc hoặc nam sắc và các thị dục, không cùng với người đời làm những điều tục lụy.
3. Bồ Tát nên quán sát hình hài như đất, phân chứa đầy ô uế, phong đàm, nhiệt huyết, không nên tham đắm, nay còn mai mất mỗi ngày bước gần đến cửa chết, nghĩ thế mà nhàm chán cảnh vô thường lo siêng năng tu đạo.
4. Bồ Tát thường tu hạnh nhu hòa, nhẫn nhục, thuận thảo, cung kính và khuyên người khác cũng tu những pháp ấy.
5. Bồ Tát nên tu hành tinh tấn, thường biết, cung kính, phụng thờ Sư Trưởng, thân cận, xót thương những kẻ bần cùng; thấy người nguy khốn, đem thân mình thay thế.
6. Bồ Tát cần phải tu tập Phương Đẳng Đại Thừa Bồ Tát Tạng và thọ trì đọc tụng những pháp Phật thường khen ngợi.
7. Bồ tát phải tu tập đệ nhất nghĩa đế (chân lý tuyệt đối) nghĩa là thật tướng, nhất tướng, vô tướng.
Nếu Bồ Tát muốn mau được quả vị Vô Thượng Bồ Đề phải luôn luôn thân cận thực hành 7 pháp nói trên.
Nguyện cầu Ông phát khởi đại Bồ Đề Tâm, thực hành Bồ Đề Tâm, sớm thâm nhập vào kho tạng bí mật của chư Phật, được Tổng Trì Môn vào thành lớn Viên Giác của chư Phật, đắc Nhất Thiết Chủng Trí, làm lợi ích chân thật cho mình cho người và cho tất cả chúng sanh. Đúng như Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy:
“Muốn biết tất cả mọi Phật pháp,
Hãy mau khởi phát Bồ Đề Tâm.
Tâm này công đức thù thắng nhất,
Chắc chắn đắc Phật trí vô ngại.
Chúng sinh tâm hạnh: Có thể biết,
Cỏi nước, hạt bụi: Cũng rõ thấu.
Biên tế hư không: Đo lường được.
Công đức phát tâm không thể tính.
Phát tâm: Sản sinh Phật ba đời,
Thành tựu an lạc trong thế gian,
Tăng trưởng tất cả thắng công đức,
Vĩnh đoạn tất cả mọi nghi hoặc.
Mở ra tất cả diệu cảnh giới,
Tận trừ hết thảy mọi chướng ngại,
Làm thành tất cả cõi thanh tịnh,
Xuất sinh tất cả trì Như Lai.
Muốn gặp mọi Phật trong mười phương,
Muốn thí vô tận kho công đức,
Muốn diệt khổ não của chúng sinh,
Hãy mau phát khởi Bồ Đề Tâm!"