Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

 Tri môn cảnh huấn


CẢNH  SÁCH ĐẠI CHÚNG 

CHÙA PHẬT ĐẢNH BẢO VƯƠNG

 

Kính thưa đại Chúng!

Việc tu tập trước là tự thân giác ngộ, đạo muốn thành phải nổ lực công phu. Nếu tự thân đã không giác thì còn tu tập để làm gì? Nếu không nổ lực công phu thì chí đạo làm sao thành được? Nếu tự thân đã giác thì hơn thua tranh luận để làm chi? Đã muốn thành đạo nghiệp sao lại để mất công phu chánh niệm? Thời Phật tại thế chúng Tăng mà loạn tưởng thị phi ồn náo là Ngài ngay lập tức đuổi đi không cho sám hối (Như 500 đệ tử của Ngài Mục Kiền Liên và Đức Xá Lợi Phất, ồn ào chốn tịnh môn, Đức Thế Tôn ngay lập tức đuổi đi và quyết định không cho sám hối; đến nỗi phải cảm Đức Đại Phạm Thiên Vương thị hiện cầu thỉnh Tối Thắng Tôn, Đấng Đại Hùng Mâu Ni mới khởi đại bi tâm mà cho sám hối). Kinh với Luật còn đó, đệ tử Phật há chẳng bận tâm ư? Nội bộ loạn do người lãnh đạo thiếu đức, Tăng Chúng loạn tức Tăng Chúng không tu. Lãnh đạo thiếu đức có thể bồi công lập đức, Tăng Chúng không tu thật quá si cuồng. Người lãnh đạo từ bi nhưng phải dùng trí tuệ làm việc, Tăng Chúng không tu lập tức có thể đuổi đi. Gương Phật còn đó mà các người đui điếc hay sao? Vô thường tấn tốc sao suốt ngày cứ chạy theo ma ý? Tôi thật thấy hổ thẹn thay cho các vị, tôi cảm thấy hối tiếc thay cho mọi người: Công phu không tiến, đạo nghiệp lùi xa, thật xấu hổ khi xưng ta đây là Thích tử, thật nhục nhã khi thân xuất tục mà tâm thế gian. Nếu đại Chúng hòa hợp đúng nghĩa Lục Hòa thì còn gì để nói? Nếu tất cả đều xả thân tu tập thì há có còn điên đảo hơn thua? Đức Phật dạy: “Chư Tỷ Kheo, như bị những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễu loạn, người ấy do vậy không phải người thực hành giáo pháp của ta. Ở đây, chư Tỷ Kheo, các ông phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ, và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.”  

Nếu đại chúng cùng tư duy và thực hành theo lời dạy này của Như Lai thì còn loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các vị không kham nhẫn được chăng? Nếu không thực hành theo lời huấn thị, khai thị của Đức Như Lai thì kẻ ấy đích thực đang đi vào ma nghiệp! Nếu đã không xem trọng lời Phật dạy thế các vị còn xuất gia học đạo để làm chi? Đạo là phải hành, không hành thì không gọi là đạo. Đức là do tu, không tu thì đức làm sao thành? Để đại chúng tiến tu, thành tựu đạo nghiệp thì người lãnh đạo quyết phải sáng suốt, dùng công phu tu tập mô phạm cho chúng Tăng, xử lý phải nghiêm minh nhưng không thiếu từ bi tuệ giác. Còn Tăng chúng phải tuân thủ Thanh Quy, phải nghe và thuận theo người lãnh đạo.

Tôi hi vọng đại Chúng không cô phụ ân Phật và phải tôn trọng tánh linh của mình, đừng thấy lỗi người, đừng bận tâm người làm hay không làm, tu hay không tu, mà phải nhìn lại chính mình có thật tu đúng pháp không. Đừng nghĩ Đức Phật đã Niết Bàn mà các người muốn làm gì cũng được, đừng nghĩ thời Mạt pháp thì hành động theo kiểu thất phu. Đôi mắt Đức Phật vẫn nhìn các vị đấy thôi, giáo pháp vẫn trường lưu do không thực hành đổ lỗi mất gốc. Từ nay đại Chúng nguyện xin thương xót cho tâm nguyện khổ sở của tôi, cảm thông cho chí nguyện bi thiết của tôi mà phải cùng nhau sách tấn tiến tu, đừng để tâm làm thầy mình mà mình phải làm thầy của nó!

                                                        Thư Từ Ấn Độ 15/1/2020    

                                                                           Thích Long Viễn



Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2020

CÁNH MỘNG BAY

--------------------ೋ•---------------------

Sương rơi

Trên lối 

Anh về

Nhẹ vương trên gió

Hòa vào

Mắt cay

Sương rơi

Thổi cánh

Mộng bay...

Mộng bay

Mây vỡ

Cho ngày nắng lên.


ೋ•-Thích Long Viễnೋ•




Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2020

 


HUYẾT NGUYỆN BI TÂM

------------------***-------------------

Tôi về trong bóng đêm

Lòng tan theo vạn nẻo

Đất trời như khô héo

Trong từng giọt sương rơi.


Lặng lẽ giữa cuộc đời

Không một ai tri kỷ

Tình ơi! Dâng vạn lý

Qua mấy mùa thương đau.


Tiếng gió đêm gợi sầu

Về cố hương xa vắng

Đèn khuya soi tóc trắng

Lạnh đến chín phương trời.


Lệ rơi...lệ rơi...rơi

Trong trời sao mắt biếc

Tương tư tình cháy siết

Qua vạn kiếp hóa thân.


Đêm... lên cõi hồng trần

Biến hình thành Mạt Pháp

Đưa chúng sanh trôi dạt

Vào Lục Thú luân hồi.


Đêm... đêm lại lên ngôi

Cho tình thôi... vỡ nát

Tình ơi! Tôi khẽ hát

Ru lòng vào chua cay.


Nghiêng vai trút đêm gầy

Cho mộng tàn qua gối

Tình rơi... tình chấp nối

Thành Huyết Nguyện Bi Tâm.


Trăng lên bóng đổ thầm

Vương mình qua kẽ lá

Bước vào tâm khách lạ

Trong cô phòng quạnh hiu.


Ánh vàng chảy muôn chiều

Tan vào hư không giới

Trăng hay Tâm muốn nói

Tuệ quang chiếu khắp cùng?


Với chí nguyện đại hùng

Không bao giờ thoái chuyển

Dù thân có tan biến

Dù lửa đốt thân này.


Dù kéo lưỡi trâu cày

Dù máu khô xương nát

Dù đồng sôi ào ạt

Rót vào miệng không khuây...


Đêm lạnh quá... đêm này...

Một màu trong huyết lệ

Tương tư ngập nhân thế

Thế Tôn hỡi...có hay?


Đêm... sanh chúng đọa đày

Đêm... lệ rơi ngập lối

Đêm... tình lên khẽ hỏi

Đêm... ai hiểu... tình say?


Đêm... bóng tối bao vây

Đêm... về trong tĩnh lặng

Đêm... chân lý hiển bày

Đêm... Niết Bàn tỏ rạng.


Đêm... lên ngôi tỏa sáng

Đêm... thổi giấc mộng bay

Đêm... Giác Tánh ở đây

Đêm... cho người tỉnh thức.


Đêm... thật tánh, muôn đức

Đêm... chính thật Như Lai

Pháp âm Ngài chuyển dài

Qua không gian vô tận.


Thời gian cùng chuyển vận

Mãi mãi không lúc dừng

Pháp thân khắp không trung

Pháp thân luôn thường chuyển?


Vì Người con dâng hiến

Tất cả thân tâm này

Như Lai hỡi có hay

Mình con... trong đêm tối...!


Nhớ Người con thầm gọi

Cho bùng cháy đêm thâu

Cháy tận đến ngàn sau

Tình ơi! Soi vạn lối!


Tình rơi vào đêm tối

Thắp sáng ngọn bình minh

Soi đường chúng hữu tình

Hoành xuất qua Tam Giới.


Tình con chia hai lối

Một nửa ở Ta Bà

Thệ chiến thắng Tứ Ma

Thiệu long dòng Thánh chủng.


Nửa tương tư kinh khủng

Về Cực Lạc trời Tây

Tim rỉ máu đêm này

Lệ hàn băng tình điểm.


Hàn băng huyết lệ điểm

Thành biển mặn thiên thu

...

                                         Đêm Trên Núi Đà Lạt  18/12/2020

                                   **-- Thích Long Viễn --**














Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2020


 ೋ•- ĐỆ TỬ NHƯ LAI -ೋ•

---------------------------------------------------ೋ•---------------------------------------------

Ba cõi không an như nhà lửa

Lục thú xoay vần khổ tiếp nhau

Ngũ uẩn dường như mộng

Sáu căn chẳng bền chi

Một lòng quyết phá lưới ngu si

Dắt dìu sanh chúng qua bờ mộng

Thệ tinh tấn

Phát Bồ Đề

Độ thoát hết thảy chúng chúng si mê

Viên thành đại quả ngôi Chánh Giác.

Thân là huyễn

Cảnh là huyễn

Nghiệp dữ gây cũng huyễn mà thôi

Thân- tâm- tánh ấy ngộ rồi?

Ta cùng với Phật: Ôi, thôi khác gì?

Thản nhiên trời đất mà đi

Tiêu dao tự tại không gì vướng chân.

Nguyện xin đại chúng một lòng

Truyền đăng tục diệm soi đường chúng sanh!

Ta đi...

Lệ điểm...

Tàn canh...

Lệ rơi...

Hòa máu...

Lệ thành ...

Bi tâm...

Thương thay kiếp sống hồng trần

Ngược xuôi trong biển luân hồi ngàn năm

Bát phong thổi sóng lậu dâng

Bao giờ thoát khỏi Căn, Trần, Mộng đây?

Suy tư...

Ta đếm...

Từng ngày...

Lệ tuôn...

Tóc trắng...

Hao gầy...

Xác thân...

Suy tư... Cõi nhớ...Phật ân...!

Tương tư... lệ cháy... Ta- bà... bóng đêm!

Hỡi chúng sanh

Mau tỉnh giác

Đừng để vọng tình đi lầm lạc

Như sấm sét

Quyết định liền

Đi lên? Hay khổ não triền miên?

Thân vô thường

Cảnh vô thường

Không cho người chần chừ do dự:

Quỷ vô thường!

Sứ Diêm Vương!

Kia, Pháp trường!

Không cho ai thoát khỏi

Này, Địa ngục!

Kìa, Ngạ quỷ!

Đây, Súc sanh!

Ăn năn thôi, đã muộn!

Nhân với Quả công bằng

Cho nên phải:

Phất cờ tâm

Vượt biển ái

Phá luân hồi

Chấn ma quân

Ngay giờ quyết dứt liền ngay dứt

Chần chừ do dự lúc nào xong?

Mau mau! 

Nếu là kẻ Trượng phu

Hãy mở mắt thật to, nhìn thẳng vào lòng:

Pháp giới dậy tâm

Cung ma khởi diệt

Trời đất kiên quyết

Đã đến lúc:

Thệ chứng Bồ Đề

Vượt thoát bến mê

Phá tan lưới ái

Đạp bằng khổ hải

Dứt hẳn vô minh

Bước lên Diệu Giác

Không còn lầm lạc

Bạt tế chúng sanh

Chuyển vận diệu âm

Phá nghi tứ chúng

Chánh pháp trùng tụng

Kiến lập đạo tràng

Hàng phục chúng ma

Thiệu long Thánh chủng

Ta thật chính là

Đệ tử Như Lai!

              Nha Trang 16/11/2020          

                ೋ•-Thích Long Viễn- ೋ•

















Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2020

   Câu Chuyện Thầy Trò


SỰ GIẢI THOÁT

Một hôm khi ánh thái dương dần khuất sau rặng núi xanh, le lói những ánh hồng xuyên qua khu rừng trước mặt tựa như những ánh hào quang xuyên qua lớp màng vô minh mà hiển bày chân tánh bất sanh bất diệt với những ai đang an trú trong Chỉ- Quán mà hành thâm tuệ giác Bát Nhã. Phải chăng cảnh vật đang khẽ hát lên bài ca bất tử: Diệu Pháp Âm Tuyên Lưu Biến Hóa Sở Tác, đúng thật là: "Phật pháp nơi thế gian, không lìa thế gian giác, lìa thế tìm Bồ Đề, cũng như tìm sừng thỏ." Lúc ấy Sư Phụ đang ngồi trên chiếc ghế nằm bằng gỗ hướng về phía biển trong khu rừng vắng, có mấy chú nhỏ vây quanh; những ánh thái dương hồng xuyên qua rừng cây phóng tỏa đến Ngài... Ôi, đẹp làm sao!...

Khi ấy Sư Phụ nhìn mấy chú tiểu mỉm cười và Ngài khẽ ngâm một bài kệ:

"Biết thân bị hủy hoại

Còn thức bị lụn tàn

Thấy sợ trong sanh y

Hiểu được sanh và chết.

Sau khi chứng đạt được

Sự an tịnh tối thượng

Tự ngã được tu tập

Chỉ còn đợi thời gian."

Rồi Sư Phụ im lặng một chốc sau đó Ngài nói tiếp: 

Các con phải luôn ghi nhớ sự tập khởi của Sanh y là sự tập khởi của ái, sự tập khởi của ái là sự tập khởi của luân hồi, sự tập khởi của luân hồi là sự tập khởi của khổ đau. Cho nên Sanh y diệt thì ái diệt, ái diệt thì luân hồi diệt, luân hồi diệt tức là giải thoát đó con. Giải thoát tức là tâm không còn ái nhiễm đối với các pháp như thân, tâm, thế giới... vì tất cả các pháp này rồi cũng đến tàn hoại, vì sao? vì nếu cái gì có tướng đều là hư vọng, tất cả các pháp do duyên mà thành rồi cũng do duyên mà diệt, nếu sanh và diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền, đó là sự an tịnh tối thượng của bậc Thánh đó con! Thế nên khi các con khởi tâm công phu tu tập thì các con phải quán tri sự vô thường của các pháp, thấy được sự thật của thân và tâm này, nó là cái gì? Từ đó mà sợ hãi khi thấy sự nguy hiểm của Sanh y, thấy rồi thì phải ly nó, phải từ bỏ nó, phải buông nó xuống, phải vượt qua nó, phải đoạn diệt nó. Do đoạn diệt được Sanh y nên ái diệt, ái diệt nên con giải thoát được tự ngã, do con không ái luyến và chấp thủ đối với tự ngã nữa nên con sẽ chứng đạt được sự an tịnh tối thượng của một bậc Thánh. Đây là bài kệ trong Tiểu Bộ Kinh nói về sự an tịnh tối thượng của một bậc Thánh khi Sanh y diệt, tức ái diệt, ái diệt tức là Niết Bàn, bài kệ này tuy ngắn gọn nhưng nó là căn bản của Phạm Hạnh, các con nên ghi nhớ trong lòng và dụng tâm như thế để chứng đạt cứu cánh Phạm Hạnh.

Sau đó Sư Phụ đưa mắt nhìn về phía biển xa xa, vài tia nắng hồng phản chiếu vào trong mắt Ngài long lanh như hai viên ngọc. phải chăng ánh mắt Sư Phụ đang soi chiếu vào tâm thức của mấy chú nhỏ đoanh vây, làm cho tâm thức mọi người an tịnh và mát lạnh đến lạ lùng... Rồi Sư Phụ lại khẽ cất giọng trầm ấm ngâm lên bài kệ sau, một bài kệ mà với tôi nó hay đến vô cùng và diệu ý thậm thâm sâu đến không thể nghĩ bàn:

"Phật rằng có ái, có ly
Đã thương thì sớm muộn gì cũng xa
Vô thường, số mạng người ta
Cùng trong muôn vật chịu là luật chung.


Xem qua, ta luống hãi hùng
Khắp trong tam giới cháy bùng như than
Người yêu ta đến số ngàn
Người mà ta mến cũng tràn khắp nơi
Nhưng ta có thể tách rời
Cam lòng ly biệt những người yêu thương
Cõi đời là chốn ngục đường
Là nơi u ám, là trường nạn nguy
Con người chẳng biết nghĩ suy
Cứ ham thương mến dứt đi không đành
Chết kia nào có vị tình
Lại mong đánh đỗ, tranh giành, cướp đi.
Yêu nhau ví chẳng biệt ly
Cần chi giải thoát tu trì nữa chăng?
Càng nhiều âu yếm lăng xăng
Thì giờ vĩnh quyết lại càng đến mau.


Hiền nhân là đấng trí cao
Tìm đường giải thoát, chẳng cầu trí ai."

Sư phụ kết thúc bài kệ, tôi liền thưa:

-Bài kệ này của ai vậy Sư Phụ?

Sư Phụ đáp:

-Bài kệ này của Tổ A-na Bồ- đề. Các con nên nhớ,chúng ta đang sống ở Dục giới cũng như những con cá đang bơi trong biển dục vậy, và ngũ dục chính là năm miếng mồi của ma vương quăng ra để tiêu diệt chúng ta như diệt cá!  Nếu các con tham đắm ngũ dục thế gian thì chẳng khác nào con cá bị cắn câu, bị ma vương muốn làm gì thì làm. Hay nếu các con đắm say với ngũ dục thì chẳng khác nào những con thiêu thân sa vào ngọn đèn đang cháy đỏ, nó chết đi vì bị thức tâm lừa dối, trong mắt nó ngọn đèn chính là một nơi lý tưởng tuyệt vời, một chân trời đầy hương hoa mật ngọt, nhưng chẳng ngờ đó chính là điểm chết của tử thần. Các con thường suy ngẫm về bài kệ trên sẽ nhận ra con đường giải thoát và biết mình phải nên làm gì! Cẩn thận! Cẩn thận!

...

Lời Sư Phụ đã kết thúc mà âm ba còn vang vọng mãi trong tâm thức mọi người: "Những lời Sư Phụ đã tuyên lưu làm thân tâm chúng tôi mát lạnh và an tịnh lạ thường, chúng tôi đang tắm mình trong biển Cam Lồ chăng? Thầm tri ân Sư Phụ vô cùng mà không thể nói nên lời ... Tâm chúng tôi chợt dâng lên cảm xúc vô biên hướng về chúng sanh: Ước gì tất cả chúng sanh đều được như chúng tôi!..." - Mấy chú chia sẻ.

...





Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2020

Sư Phụ Long Viễn khai thị đại chúng

THÀNH TỰU GIỚI TỐI THƯỢNG CỦA BỒ TÁT
(Bồ Tát Nhập Pháp Giới Viên Giác Đại Tâm)

Giới Hạnh Bồ Tát lấy thiền định về Không làm chỗ trì tâm, lấy Trí thanh tịnh làm đối tượng và phát sinh Bồ Đề Tâm như căn bản. Nói cách khác ngay nơi ThiềnGiới hạnh viên mãn, nhân Giới thanh tịnh mà Trí giác phát sanh, ngay nơi Trí giác ấy mà chu toàn tất cả Phật pháp. Tất cả Phật pháp chu toàn tức là thanh tịnh Phật Địa vì hạnh phúc của chúng sanh. Mà thanh tịnh Phật Địa viên mãn sự lợi ích chúng sanh chính là Bồ Đề Tâm tối thắng, Bồ Đề Tâm này làm căn bản để bước vào thành tựu Trí toàn giác về Ngã KhôngPháp Không để Bồ Tát có thể Nhập Pháp Giới hằng an trụ trong cõi Thường Tịch Quang mà vận hành Đại Tâm bạt tế pháp giới. Cho nên Bồ Tát muốn vào cõi Thường Tịch Quang của chư Phật chỉ cần viên mãn Giới Hạnh Bồ Tát, giới hạnh tối thượng của Bồ Tát là Tâm Rỗng Lặng, rỗng lặng đồng như Không. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói: "Khi tâm chúng sanh đi vào pháp giới, với tâm rỗng lặng sẽ biết được cõi Thường Tịch của chư Phật." Nói tóm lại, Bồ Tát muốn Nhập Pháp Giới để hành dụng Đại Tâm thì phải an lập nơi Trí MônHạnh Môn viên thông. Nghĩa là gì? Nghĩa là Bồ Tát phải dùng Giác Quán an lập Đại Tâm ở nơi Trung Đạo mà viên thành Đại Giới. Giác Quán tức là Trí Môn, còn Đại Tâm tức là Hạnh Môn. Trong Trí Hạnh, trong HạnhTrí, TríHạnh không một không khác. Chánh yếu mà nói thì Bồ Tát Nhập Pháp Giới phải Chánh Quán với Trí Giác siêu thế an lập Giới Tối Thượng trên lý tánh Bồ Đề mà thành tựu chánh biến trí giác: Pháp Giới đồng với TRUNG ĐẠO, Rỗng Lặng đồng với KHÔNG, Tâm và Phật đồng với GIẢ. Đấy là Giới Tối Thượng Của Bồ Tát, cũng gọi là sở hành chân chánh của Bồ Tát Nhập Pháp Giới Viên Giác Đại Tâm vậy!



Thứ Ba, 20 tháng 10, 2020

 Tham Thiền Hoặc Vấn


 Nhận Biết Và Phá Trừ Tất Cả Cảnh Giới Ma


Phần VI- Phá Trừ Tất Cả Cảnh Giới Ma

Hỏi: Kính thưa thầy về phần Ma sự tôi thật đã liễu tri, bây giờ xin thầy hoan hỷ chỉ dạy phương pháp hàng Ma được không ạ?

Đáp: Về phương pháp hàng Ma, ở trên ít nhiều tôi cũng đã nói, nhưng để ông liễu ngộ toàn triệt hơn giờ tôi sẽ tiếp tục ước lược tỏ bày. Ông hãy lắng nghe, suy nghĩ và khéo tác ý để Phục- Đoạn- Tu- Chứng được tối thắng nhất. Biết Ma sự để đuổi chúng đi, để hàng phục chúng, để tồi hoại chúng, để chiến thắng chúng mà thành Chánh Giác Bồ Đề. Trước tiên tôi lược nói về phương pháp khước từ, vượt qua những Ma sự này theo Chỉ và Quán. Phương pháp này ngày xưa Tổ sư của Thiên Thai Tông cũng đã từng khai thị cho đại chúng, nay tôi  cũng vì Ông mà phân tích giải bày thêm cho thật rõ ràng để Ông có thể y chỉ vào đấy mà hàng Ma chứng đạo:

1. Tu Chỉ chiến thắng: Phàm thấy tất cả cảnh ma bên ngoài đều biết là hư dối, không lo, không sợ, cũng không thủ, không xả hay vọng chấp phân biệt, dứt tâm lặng yên thì ma tự tiêu diệt. 

Vâng, đã quá rõ ràng! Ông phải biết tất cả các pháp đều là hiện cảnh duy tâm, nên Kinh Kim Cang dạy: "Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng, nếu thấy có tướng chẳng phải tướng liền thấy Như Lai", chính ngay nơi tâm này là giác tánh Như Lai, ngay đây là Trạm Nhiên vậy! Chính tâm mình là Phật, đừng nên đem Phật lễ Phật, dù cho Phật và Bồ Tát cũng như Hiền Thánh ... có hiện ra trước mặt cũng không nên lễ kính, cũng không xao động... vì tâm ta bản lai thanh tịnh, không có các tướng mạo ấy, nếu chấp trước vào các hình tướng ấy tức rơi vào tà đạo, rơi vào cảnh giới của Ma. Các hình tướng khác như quỷ thần, dạ xoa, tinh mị, tà yêu, ác thú... cũng lại như vậy, không lo, không sợ, không hoang man, không lo lắng... cũng không thủ, không xả hay vọng chấp phân biệt, cũng không nên nghi hoặc. Tâm ta xưa nay vắng lặng rỗng không. Hết thảy tướng mạo đều là giả dối, chỉ cần không chấp không trụ nơi hình tướng, tất cả hình tướng đều là pháp sanh diệt vô thường. tâm lặng yên thì cảnh Ma tự tan tự diệt nên mới nói: "Lìa hết thảy tướng liền gọi là chư Phật!" là chỉ ý này vậy!

2. Tu Quán chiến thắng: Nếu thấy các cảnh ma như trước đã nói, dùng Chỉ đuổi không đi, phải phản quán tâm năng kiến không thấy chỗ nơi thì bọn ma kia chỗ nào mà não loạn ? Khi quán như thế ma liền diệt hết. Nếu nó trì hoãn không đi, cần phải chánh tâm, chớ sanh tưởng kinh sợ, không tiếc thân mạng, chánh niệm không động, biết trên bản tánh chân như ma giới tức là Phật giới; nếu ma giới là Phật giới thì chỉ có một không hai; rõ biết như vậy thì ma giới không xả, Phật giới không thủ, Phật pháp tự sẽ hiện tiền, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt. 

Há không rõ ư? Tôi hay nói với chúng đệ tử phải thường nổ lực công phu, công phu là gì vậy? Công phu có khó không? Không! Rất dễ! Chỉ cần buông xuống là được! Buông cái gì?Chỉ cần đem tất cả những gì đã có trong tâm thức buông xuống và từ bỏ chúng, ấy thật là công phu chân chánh, nếu có công phu nào khác thì thật là si cuồng vô trí, đều là hướng ngoại cầu tìm, mà tìm là không thể được, hướng ngoại cầu giác tức là ngoại đạo. Cho nên nếu thấy các cảnh Ma như trước đã nói, dùng Chỉ đuổi không đi, phải phản quán tâm năng kiến không thấy chỗ nơi thì bọn ma kia chỗ nào mà não loạn? Khi quán như thế ma liền diệt hết. Bởi thế nên Chư Tổ Sư cũng đã từng nói: "Hễ có tâm phân biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng". Liễu tri được mộng, còn không tỉnh mộng ư? Cho nên nếu nó trì hoãn không đi, cần phải chánh tâm, chớ sanh tưởng kinh sợ, không tiếc thân mạng, chánh niệm không động, biết trên bản tánh chân như Ma giới tức là Phật giới; nếu Ma giới là Phật giới thì chỉ có một không hai; rõ biết như vậy thì Ma giới không xả, Phật giới không thủ, Phật pháp tự sẽ hiện tiền, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt. Thắng tri như thế thì Ma sự làm sao não loạn được? Kinh Duy Ma nói: "Trực Tâm, Thâm Tâm, Bồ Đề Tâm là tịnh độ của Bồ Tát, Bồ Tát muốn được cõi Phật thanh tịnh? Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tinh!" Nếu tâm thức của ông tịch diệt, chẳng có chút động niệm thì đó gọi là chánh giác. Giác đã chánh thì há có còn mê nhiễm hay động loạn ư? Giác đã chánh thì cảnh Ma làm sao không tan không diệt?

Lại nữa, nếu thấy ma cảnh không tiêu chẳng cần phải lo, nếu thấy tiêu diệt cũng chớ sanh mừng. Vì cớ sao? Vì chưa từng thấy có người ngồi thiền thấy ma hóa làm cọp, sói đến ăn thịt, cũng chưa từng thấy ma hóa làm nam nữ đến kết làm vợ chồng, chính nó là huyễn hóa. Người ngu không rõ, tâm sanh kinh sợ và khởi lòng tham đắm, nhân đó mà tâm loạn, mất thiền định và sanh cuồng, tự chuốc lấy họa hoạn đều tại mình không có trí tuệ mà thọ hại, không phải tại ma gây nên. Nếu các ma cảnh làm não loạn người tu, hoặc trải qua nhiều tháng đến cả năm mà không đi, chỉ phải đoan tâm chánh niệm cho kiên cố, không tiếc thân mạng, chớ ôm lòng lo sợ, phải tụng các kinh Đại thừa, Phương đẳng và Thần Chú trị ma, thầm tụng niệm và hằng nhớ Tam bảo. Nếu khi xuất định cũng phải tụng  Chú để tự đề phòng, sám hối, hổ thẹn và tụng Giới Luật, tà không can phạm được chánh, lâu lâu nó tự diệt. Ma sự rất nhiều nói không thể hết, phải khéo mà biết nó. 

Ông phải biết: Pháp vốn vô pháp, tâm cũng vô tâm, tâm pháp đều không, là tướng chân thật. Nếu động là tâm động, loạn là tâm loạn, động loạn do tâm nhưng tâm vốn không động; liễu tri như thế tướng chân thật hiển bày, Ma cảnh tự tan biến ngay. Nếu các ma cảnh làm não loạn người tu, hoặc trải qua nhiều tháng đến cả năm mà không đi, thì phải biết mình chưa ngộ được bổn tánh, chưa thấy được ngay nơi tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai. Giác tức là chỗ linh diệu rõ biết, ứng tiếp tùy thời luôn phù hợp với sự vật, sự việc mà không động cũng không rung chuyển theo pháp trần... Vì chưa ngộ được bổn tánh chân thật hoặc có ngộ nhưng chưa triệt để nên bị cảnh Ma nhiễu loạn, lúc bấy giờ chỉ phải đoan tâm chánh niệm cho kiên cố, không tiếc thân mạng, chớ ôm lòng lo sợ, phải tụng các kinh Đại thừa, Phương đẳng và Thần Chú trị ma, thầm tụng niệm và hằng nhớ Tam bảo. Nếu khi xuất định cũng phải tụng Thần Chú để tự đề phòng, sám hối, hổ thẹn và tụng Giới Luật, tà không can phạm được chánh, lâu lâu nó tự diệt.

Thế nên, người sơ tâm tu hành cần phải gần gũi thiện tri thức. Nếu có những việc nạn như vậy, ấy là ma nhập tâm người hay khiến người tâm thần cuồng loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhân đó thành bệnh đến chết. Hoặc khi ma cho được tà thiền định, trí tuệ, thần thông, Đà-la-ni, thuyết pháp giáo hóa, người đều kính phục, về sau phá hoại việc lành xuất thế của người và phá hoại chánh pháp. Những việc ma như thế, có nhiều loại sai biệt không thể nói hết. Nay lược chỉ bày những điều cần yếu để cho người tu trong lúc tọa thiền không lầm nhận các cảnh giới ma. 

Ông phải xác quyết với tín tâm tuyệt đối rằng: Sự giác ngộ của mình trong đời mạt pháp này hoàn toàn phụ thuộc vào nhân duyên mình có trưởng ngộ Minh Sư hoặc Thiện Tri Thức hay không. Vì sao vậy? Như Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật dạy: "Nên gần gũi Thiện tri thức, chớ lập theo hạnh ác, chớ tin vào nghiệp ác. Vì sao thế? Gần gũi Thiện tri thức rồi, niềm tin liền tăng thêm, giới, văn, thí, trí tuệ thảy đều tăng thêm. Nếu Tỳ-kheo gần gũi Thiện tri thức thì chớ tập theo hạnh ác. Vì sao thế? Nếu gần gũi Ác trí thức, sẽ không có tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Thế nên các Tỳ-kheo! Hãy gần gũi Thiện tri thức, chớ gần gũi Ác tri thức. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!" Và Ngài còn dạy:

"Chớ gần Ác tri thức,
Cũng chớ ngu theo hầu.
Nên gần Thiện tri thức,
Bậc tối thắng trong Người.
Người vốn không có ác,
Tập gần Ác tri thức,
Sau ắt trồng cội ác,
Ở mãi trong tăm tối."

Cho nên ông tuyệt đối phải minh đạt những điều trên để có sở hành chân chánh!

Nói tóm lại, nếu muốn dẹp tà về chánh phải quán thật tướng của các pháp, khéo tu Chỉ, Quán thì không có cái tà nào mà không dẹp được. Cho nên trong kinh luận chép: “Trừ thật tướng của các pháp, kỳ dư tất cả là ma sự”. Như bài kệ chép : 

Nếu phân biệt nhớ tưởng, 

Tức là lưới của ma, 

 Không động, không phân biệt, 

 Ấy tức là pháp ấn. 

Tất cả phàm phu ức tưởng phân biệt, điên đảo chấp tướng, thế nên có trói buộc. Mống niệm hý luận, cho nên bị trói buộc. Thấy, nghe, hay, biết, cho nên bị trói buộc. Trói buộc tức không giải thoát, không giải thoát tức bị sầu, bi, khổ, ưu, não bức bách, đó là Ma sự não loạn vậy! Cho nên trong Kinh Ma Nghịch có Thiên tử tên là Đại Quang, vốn theo hầu cận Bồ Tát Văn Văn Thù Sư Lợi, lúc ấy hiện đang an tọa nơi tòa ngồi, liền thưa hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

        -Thưa Đại sĩ! Vì sao có thể cho rằng các Bồ Tát thực hành những việc của ma? Việc làm của ma là gì?

          Đức Văn Văn Thù Sư Lợi đáp:

        -Đối với các nghiệp mà có tạo tác, đó là việc làm của ma. Đối với chí nguyện mà có chỗ thọ nhận, chấp giữ, có sự xâm đoạt, đó là việc làm của ma. Nếu tư tưởng có ham muốn, chấp trước, nhận thức nhớ nghĩ mong cầu, đó là việc làm của ma.

        Lại nữa, này Nhân giả! Bồ Tát nương tựa tham chấp, chí mong cầu đạt đến đạo quả, đó là việc làm của ma. Tâm đối với sáu pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ luôn dựa chấp, đó là việc làm của ma. Thức nghĩ về bố thí, vọng tưởng về trì giới, thọ chấp về nhẫn nhục, buông lung nơi tinh tấn, vướng mắc nơi thiền định, hạn hẹp về trí tuệ, đó là việc làm của ma.

        Lại nữa, này Nhân giả! Tâm chỉ lìa thích ở chỗ vắng lặng, thực hành để đạt được các pháp quán cho riêng mình, đó là việc làm của ma. Nếu khiến nhớ nghĩ về hạnh tri túc, chỉ tu tập đức hạnh cho riêng mình, đó là việc làm của ma. Nếu hành theo nẻo không, vô tướng, vô nguyện, tu tập không buông lung, trụ chấp nơi chỗ thuyết giảng, chỉ dạy của Như Lai, đó là việc làm của ma. Nhân giả, nếu mọi tư tưởng đều có chỗ chấp giữ, tâm ý cũng ở chỗ ứng hợp thì mọi thấy nghe, nhớ biết, phân biệt về kinh điển đều là việc làm của ma.

Việc làm của Ma là như thế, còn không quá rõ ràng ư? Nên nếu hành giả chánh quán với Bồ Đề Tâm thì có thể dùng các pháp mà làm Phật sự, không có chướng ngại. Như Kinh Duy Ma nói: "Vì có bốn loại ma và tám muôn bốn ngàn phiền não này mà chúng sanh bị lao nhọc, các Đức Phật bèn dùng pháp này mà làm Phật sự." Cho nên giác ngộ thật tánh gọi là Bồ Đề vậy? Giác ngộ Bồ Đề tức là chiến thắng ác Ma vậy! Vậy thật tánh ấy phải tìm ở đâu? Kinh Như Lai Bí Mật Tạng nói: "Thật tánh của thân là thật tánh của Bồ Đề, thật tánh của Bồ Đề là thật tánh của tâm, thật tánh của tâm là thật tánh của tất cả pháp. Giác ngộ hết thảy các thật tánh này gọi là giác ngộ Bồ Đề vậy." Giác ngộ Bồ Đề chân thật là ở chỗ không động, không phân biệt, đó chính là Pháp Ấn, Bồ Tát dùng Ấn này mà chấn nhiếp Ma quân, bạt tế pháp giới, viên giác Đại Tâm... Cái Diệu và cái Dụng của Pháp Ấn này là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện Không có hý luận. Như Kệ nói:

Thật tướng không phiền não

Không chúng sinh, không Phật.

Phân biệt pháp vô sinh

Phàm phu nguyện làm Phật.

Chẳng thấy các Phật pháp

Cũng chẳng thấy chúng sinh,

Người biết pháp tướng ấy

Chóng thành đấng Thế Tôn.

Nếu người cầu Bồ Đề

Ắt không có Bồ Đề

Người này xa Bồ Đề

Ví như trời với đất.

Biết các pháp như huyễn

Chóng thành đấng Thế Tôn.

Ông phải thắng giải với chánh kiến rằng: Tất cả các pháp vốn không có hai tướng, do vì nhân duyên của nghiệp Minh và Vô Minh mà sanh ra hai tướng. Nếu Vô Minh chuyển thì biến thành Minh. Tất cả các pháp thiện và bất thiện; Ma và Phật... cũng lại như vậy. Nếu chuyển được vật ắt đồng với Như lai. Ma giới Như tức là Phật giới Như. Ma giới, Phật giới đều Như nên cả hai không hai không khác. Đúng như trong Chứng Đạo Ca nói:

Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.

Nói chung, hành giả khi phát Bồ Đề Tâm tu Bồ Tát đạo, các Bồ Tát ấy do được Bồ Tát Đạo nên phá Phiền não ma. Do được Pháp Tánh Thân nên phá Ấm ma. Do được Đạo, được Pháp Tánh Thân nên phá Tử ma. Do thường nhất tâm, do tâm không trụ không chấp, không dính mắc ở một nơi nào, do vào được Bất Động Tam Muội, nên phá được Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma. Bốn loại Ma trên đã vượt qua, lại vượt qua Ma nghiệp nên nói vượt qua và chiến thắng tất cả các cảnh giới Ma vậy!


Vị Hành giả thỉnh pháp tĩnh tọa uy nghiêm lắng nghe Sư Phụ Long Viễn khai thị như người khát được uống nước mát, như người nghèo được của báu... Sau khi lời Sư Phụ kết thúc, Ông đứng lên cung kính đảnh lễ Sư Phụ ba lạy rồi quỳ gối chắp tay và thưa: "Kính bạch Thầy! Xin Thầy từ bi nhận con làm đệ tử! Con nguyện sẽ y giáo phụng hành tất cả lời Thầy dạy! Suốt cuộc đời con nguyện kính ngưỡng!" Sư Phụ mỉm cười hứa khả, đưa tay chỉ vị hành giả an tọa, sau đó Ngài bưng ly uống một ngụm nước rồi đôi mắt Ngài bỗng nhìn về phía núi xa xa, trong đôi mắt ấy dường như ẩn chứa cả một suối nguồn từ bi bao la vô hạn hay một sự bi cảm không thể nói nên lời trong đời ngũ trược ác thế này?...









Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2020

 Tham Thiền Hoặc Vấn


 Nhận Biết Và Phá Trừ Tất Cả Cảnh Giới Ma


Phần V- Ma Sự Phát Tướng (tt)

Về phần Ma ấm, giới, nhập phát sinh thì sao? Ấm ma tức là năm uẩn hay còn gọi là năm ấm. Ấm là che lấp, còn uẩn là tích tụ. Đó là năm loại: Sắc, thọ, tưởng, hành và thức tích tụ mà thành khổ quả sanh tử. Chính vì vô minh nên chấp thủ vào các uẩn nên che lấp mất chân tánh, vì che lấp chân tánh mà khởi lên tà kiến, đi trong rừng rậm dua dối không tự ra được nên không thể khai phát trí vô lậu siêu thế hướng đến đoạn tận khổ đau, như Kinh Tương Ưng III, Đức Phật dạy: "Này các Tỷ Kheo, do có sắc, có chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, nên khởi lên tà kiến", đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Đối với 62 học thuyết ngoại đạo đều gọi là tà thuyết hay tà kiến gồm: 18 luận chấp về quá khứ, 5 luận chấp về hiện tại Niết Bàn luận và 39 luận chấp về tương lai. Đều là kết quả của sự tham ái, chấp thủ năm uẩn mà thành. Cho nên Đức Phật khẳng định rằng: "Những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ vào quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những cảm thọ (những chủ trương trên) do sự xúc chạm, xúc tiếp qua sáu xúc xứ. Do duyên với những cảm thọ mà tham ái phát khởi; do duyên tham ái, thọ phát khởi; do duyên thọ, hữu phát khởi; do duyên hữu, sanh phát khởi; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ, ưu não, phát khởi. Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo như thật biết sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc xứ, vị ấy sẽ có một sự hiểu biết vượt ra ngoài những điều trên"

Chính thật từ nơi si mà có ái, do ái mà thọ báo trong sanh tử, do sanh tử nên tâm dính mắc chấp thủ ngũ dục lục trần, do tâm dính mắc nơi ngũ dục lục trần nên sanh khởi kiết sử, do kiết sử nên không thể giải thoát, không thể như thật tuệ tri với chánh kiến vô lậu về năm uẩn theo bốn chuyển, chính vì không thể liễu tri năm thủ uẩn theo bốn chuyển nên không thể đặt gánh nặng xuống, không thể vượt qua ấm Ma mà chứng quả Bồ Đề, điều này đã được Đức Thế Tôn khẳng định qua Kinh Tương Ưng Bộ III : "Này các Tỷ-kheo, khi nào Ta chưa thật liễu tri Năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không xác chứng Ta đã chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào Ta đã liễu tri Năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm Thiên, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta xác chứng Ta đã chứng Vô Thượng Chánh đẳng Chánh Giác". 

Chính tiến trình sanh tử tiếp nối mãi mãi như thế, nó đoạt mất tuệ mạng và công đức thiện căn của chúng sanh, nên gọi là Ấm ma. Đúng thật như vậy, nên Đức Thế Tôn của ta đã từng nói : "Do vị ấy hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước rồi an trú sắc, hỷ đối với sắc khởi lên. Do duyên thủ đối với sắc, hữu khởi lên. Do duyên hữu, sanh khởi lên. Do duyên sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên. (Tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức). Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn". Chính sự tập khởi khổ uẩn là sự tập khởi của sanh tử, sự tập khởi của sanh tử chính là sự tập khởi của khổ đau, sự tập khởi của khổ đau chính là sự tập khởi của Ấm ma. Ấm ma này có khai có hợp chẳng đồng, khai thì thành 12 nhập, 18 giới; còn hợp thì không ngoài 2 pháp là sắc và tâm. 

Còn về phần Tử ma Thiên ma ở Dục Giới phát sinh thì trên tôi đã có nói rồi, không lập lại nữa. 

Giờ sẽ nói Ma sự phát tướng thông qua ba loại sau đây, ba loại Ma này ngày xưa Tổ sư Thiên Thai Tông là Trí Khải Đại Sư cũng đã từng lược nói.

1. Ma tinh mị

Là loài thú theo mười hai giờ, nó biến hóa làm các thứ hình sắc. Hoặc nó hóa người thiếu nữ, người già nua, nhẫn đến những hình tướng đáng sợ không phải ít để làm não loạn người tu hành. Các loài tinh mị này não hại người tu, mỗi loài đến theo giờ của nó, phải biết rành rõ. Nếu giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) đến, ắt là loài cọp v.v... Nếu giờ Mẹo (5 giờ - 7 giờ) đến, ắt là loài thỏ, nai v.v... Nếu giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) đến, ắt loài rồng, trạnh v.v... Nếu giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ) đến, ắt loài rắn, trăn v.v... Nếu giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) đến, ắt loài ngựa, lừa, lạc đà v.v... Nếu giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) đến, ắt loài dê v.v... Nếu giờ Thân (15 giờ - 17 giờ) đến, ắt loài khỉ, vượn v.v... Nếu giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) đến, ắt loài gà, chim v.v... Nếu giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ) đến, ắt loài chó, chó sói v.v... Nếu giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ) đến, ắt loài lợn v.v... Nếu giờ Tý (23 giờ - 1 giờ) đến, ắt loài chuột v.v... Nếu giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ) đến, ắt loài trâu v.v... Hành giả nếu thấy chúng thường dùng những giờ này đến, tức biết những loài tinh thú ấy, kêu tên nó mà quở trách liền phải tiêu diệt.

Hành giả an trú trong Chỉ và Quán hướng tâm đoạn tất cả các lậu hoặc ngay trong hiện tại, công phu một khi thuần thục ắt sẽ bị những bọn ma tinh mị này đến phá hoại. Chỉ cần giác biết chúng đến theo giờ, nguyên hình của nó là gì mà chánh niệm gọi tên và quở trách, thì chúng ngay lập tức biến mất. 

 2. Ma đôi dịch 

 Ma đôi dịch: Nó cũng làm những việc xúc chạm não loạn người tu hành. Hoặc hóa như con sâu, con mọt bò lên đầu, mặt người vùi, chích, chớp nhoáng; hoặc bươi, vạch dưới hai nách của người; hoặc chợt ôm người giữ người; hoặc kêu vang lên làm ồn náo và hóa hình các loài thú rất nhiều tướng lạ. Khi nó đến não loạn, người tu liền biết nên nhất tâm nhắm mắt lại, thầm mắng nó thế này : “Ta nay đã biết ngươi, ngươi là loài quỉ Thâu-lạp-kiết-chi tà kiến ưa phá giới ngửi mùi ăn lửa trong cõi Diêm-phù-đề, ta nay giữ giới quyết không sợ ngươi”. Nếu người xuất gia nên tụng giới bổn, nếu người tại gia nên tụng tam qui, ngũ giới v.v... thì bọn quỉ này khúm núm rút lui. Nếu có hóa các thứ tướng mạo làm chướng nạn người tu như thế và các phương pháp đoạn trừ, ở trong kinh thiền có nói rộng.

3. Ma não

Ma não: Bọn ma này hay hóa làm ba thứ cảnh tướng ngũ trần đến phá thiện tâm người. 

a. Hóa cảnh nghịch ý : Chúng sẽ hóa làm những cảnh giới của 5 trần đáng ghê rợn, khiến tâm người tu kinh sợ. Như hóa cọp, sói, sư tử, những hình tượng đáng sợ, là ngũ trần ghê sợ khiến người phải kinh khủng...

b. Hóa cảnh thuận ý : Chúng biến hóa những hình tướng và cảnh giới của năm trần đáng ưa thích, khiến người tu sanh tâm tham đắm. Như hóa hình tượng cha mẹ, anh em, chư Phật và nam nữ đẹp đẽ đáng yêu, là ngũ trần yêu thích khiến người sanh tâm ái trước. 

c. Hóa cảnh không thuận không nghịch : Là cảnh ngũ trần bình thường làm loạn động tâm người tu hành khiến mất thiền định. 

Thế nên, ông phải biết Ma gọi là “Sát” cũng gọi là “Mũi tên hoa”, cũng gọi là “Năm mũi tên”; vì nó bắn vào năm giác quan của người. Làm cho con người say  đắm rơi vào mê hồn trận của Ngũ dục, tạo ra gió Giác Quán mê lầm, chính Giác Quán mê lầm đó thổi ngọn lửa tham ái hực hực không tắt, dựng cao tràng liêu mạn vào trong lưới khát ái, đắm chìm trong Dục lưu, Hữu lưu, Vô minh Lưu và Kiến lưu, nối luôn phát khởi chủng tử tâm, ý và thức... không thể thoát khỏi biển khổ của Tam giới,  không thể nhổ tận mầm móng gốc rễ của sanh tử mà bước lên địa vị Chánh Giác Bồ Đề.

Nói chung tất cả Ma sự khai phát phần nhiều bắt đầu từ 5 căn đối với 5 trần mà sanh. Khi Căn tiếp xúc với Trần thì Thức sanh khởi, chính vì mê muội Duy Thức Tánh nên nghiệp cho Ma có cơ hội khai phát, não loạn bậc chánh tu. Ông phải lưu ý là trong mỗi giác quan hiện ra 3 cảnh giới để não loạn người tu, cả 5 giác quan tổng lại là có 15 cảnh giới vậy. Như trên đã nói, đối với sắc chúng sẽ hóa những cảnh thuận trong sắc, nghịch trong sắc không thuận không nghịch trong sắc. Đối với thanh, hương, vị, xúc cũng lại như vậy. 3 lần 5 thành 15 cảnh giới. Nếu ông không phân biệt được sự biến tướng, hư dối, đe dọa, áp đảo, huyễn hoặc... của tà ma, thì sẽ bị chúng hủy hoại công phu tu hành, phế bỏ đạo nghiệp, tâm sanh điên cuồng, tạo những ác nghiệp vô kể, thậm chí lửa dục đại phát, không còn biết điều gì cả, thân thể lõa lồ, cuồng ngôn loạn ngữ, hành hạnh bất chánh, hủy báng Tam Bảo, phá hoại đạo pháp... có người trong khi công phu vỡ tim mà chết tại chỗ, hoặc phát bệnh điên cuồng cho đến chết... 

Lại nữa, ngoài ba loại Ma trên thì Ma ấy cũng có ba việc, ông cũng cần phải tuệ tri, những gì là ba? 1- Nói phô, cười cợt, nhảy múa, nhìn bậy, tham đắm chấp thủ đối với 5 dục... những việc như vậy đều từ tham ái sanh. 2- Trói buộc, đánh đập, tra khảo, châm chích, cắt chặt, đấu tranh... những việc như vậy đều từ sân sanh. 3- Lấy lửa đốt thân, chịu rét, nhổ tóc, chịu đói, nhảy vào lửa, nhảy vào vực thẳm, nhảy từ chót cao... những việc như vậy đều từ ngu si sanh. 

Bởi thế nên bậc tu hành chân chánh không thể không tường tri về Ma sự khai phát, vì nếu không biết rõ, không quán xét rõ thì sẽ bị chúng cướp mất tuệ căn, đoạt mất công đức, chìm đắm vĩnh viễn trong sanh tử luân hồi, cũng là nhân duyên của Ma vương lực. Ma ấy là oán thù của chư Phật, là giặc của Thánh nhân, phá hoại tất cả sự nghiệp của người ngược dòng sanh tử, không còn ưa thích Niết Bàn.

Ngoài Ma sự ra còn có Ma nghiệp. Về Ma nghiệp thì tạo ra ba thứ chướng là phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Chúng sanh chứa nhóm các nghiệp cho đến trong trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không cháy, không mất, không hoại, thậm chí cùng hiệp với quả báo cũng không mất. Các nghiệp ấy tồn tại lâu dài đến mức hòa hiệp cùng quả báo cũng không mất như thế. Như hạt giống lúa được gieo dưới đất gặp thời tiết nhân duyên thuận lợi thì sẽ sinh trưởng. Như có Kệ nói:

"Xe sanh tử chở người

Các phiền não kết nghiệp

Có sức lớn tự tại xoay chuyển

Không ai cấm ngăn được".

Nói tóm lại, trừ thật tướng các pháp, tất cả tàn dư đều gọi là Ma. Như các phiền não, kiết sử, phược, thủ, triền, ấm, giới, nhập, Ma vương, Ma nhân, Ma dân... những điều như vậy đều gọi là Ma cả. Chính vì tác hại của Ma quá ư kinh khủng, không thể nghĩ bàn như trên tôi đã nói, thế nên trong Kinh Đại Phẩm mới dạy: "Những loại Ma sự, nếu ai không chỉ dạy cho người tu hành biết, đây chính là Bồ Tát ác tri thức vậy".

Than ôi! Khéo không răng dè mình ư?




Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

 Tham Thiền Hoặc Vấn


 Nhận Biết Và Phá Trừ Tất Cả Cảnh Giới Ma


Phần IV- Ma Sự Phát Tướng


Hỏi: Các cảnh giới Ma thì tôi đã rõ, nhưng không biết chúng phát tướng như thế nào, nguyện Thầy từ bi chỉ dạy rõ ràng được không ạ?

Đáp: Vậy Ông lắng nghe! Thế nào là Ma phiền não phát sinh? Phiền não tức là buồn phiền não loạn, tâm thức hệ phược khiến sầu bi ưu não bức bách... Do vô minh và tham ái câu hữu với si mê làm châm ngòi cho ngọn lửa phiền não thiêu đốt thân tâm, hủy hoại thiện căn, mất giống trí tuệ, tạo vô vàn ác nghiệp. Về phiền não thì tạm chia thành hai loại là: Căn bản phiền não và Tùy phiền não. Tất cả phiền não nói chung cũng không nằm ngoài 5 thứ bất thiện pháp, tôi sẽ vì ông mà ước lượt tỏ bày.

A/ Căn bản phiền não 

Căn bản phiền não có 6 món, đó là:

1.Tham: Tham lam ngũ dục

2. Sân: Sân hận

3. Si: Si mê

Ba món này Tâm sở này trái ngược với ba món Thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) trong 11 món Thiện Tâm sở là: Tín, Tàm, Quí và ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si với cần, an, bất phóng dật, hành xả và bất hại. Ba món căn bản đầu tiên này còn gọi là tam độc, nếu người uống vào thì thân tâm bị thiêu đốt đau khổ, sầu ưu, ai oán...nó cướp mất hạt giống thiện căn và hủy hoại tất cả thiện pháp.

4. Mạn: Gồm có bảy loại mạn: 1/ Mạn tức là mình bằng người mà cho mình hơn người, hoặc người hơn mình mà mình cho người đó thua mình . 2/ Quá mạn tức là mình thua kém người nhưng cho rằng mình bằng hay hơn người, luôn tự đề cao và nâng mình lên hơn người một bậc. 3/ Mạn quá mạn tức là cho mình tài giỏi hơn người nên khinh khi kẻ khác. 4/ Tăng thượng mạn tức là luôn luôn tự mãn có được chút ít cho là đủ, nghĩ mình hay và tài giỏi mà ngạo nghễ khinh thường người khác, hay tự ngôn chứng Thánh trong khi mình vẫn là kẻ phàm phu hạ liệt . 5/ Tà mạn tức là tin vào định kiến sai lầm của mình rồi chấp chặt vào tà nhơn, tà quả, tự thị vào tà nhơn, tà quả đó mà khinh thường những người khác.  6/ Ty liệt mạn tức là dù mình thua thấp kém hơn người rất nhiều, nhưng vẫn tự thị cho họ là thua kém chút ít thôi, hoặc là tự biết là mình thấp hèn, nhưng vẫn cứ bảo thủ không chịu phục tùng học hỏi với bất cứ ai. 7. Ngã mạn tức là tâm lý tự phụ, tự ti, chấp ngã tạo thành ngã si, ngã kiến, ngã ái...

 5. Nghi: Tức là nghi ngờ, như người nghi ngờ Phật Pháp Tăng, không tin thuyết nhơn quả luân hồi v.v ...

6. Ác kiến: Tức là hiểu biết không chơn chánh tà vạy, rồi chấp thủ vào định kiến sai lầm đó của mình. Ác kiến  này, chia ra làm năm món: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ.

B/- Tùy phiền não

Gồm 20 món được chia làm 3 thứ là 10 thứ Tiểu tùy, 2 thứ Trung tùy và 8 thứ Đại tùy.

Tôi xin lược nói để ông liễu tri.

- Thứ nhất là 10 món Tiểu tùy gồm có: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu.

1. Phẫn:  Tức là giận, khi gặp nghịch cảnh sanh tâm giận giỗi.

2. Hận: Tức là câm hận, sau khi giận rồi lưu lại trong tâm không bỏ.

3. Phú: Tức là che giấu, che giấu tội lỗi của mình không cho ai biết.

4. Não: Tức là phiền, sau khi giận rồi buồn phiền trong lòng.

5. Tật: Ganh ghét, thấy người hơn mình sanh tâm đố kỵ.

6. Xan: Bỏn xẻn, có tiền của mà rít rắm, keo kiệt, không bố thí.

7. Cuống: Dối gạt, vì muốn được danh lợi nên dối gạt người.

8. Siểm: Nịnh, bợ đỡ nịnh hót với người để xin danh vọng quyền lợi.

9. Hại: Tổn hại, trái với "bất hại" trong Thiện Tâm sở.

10. Kiêu: Kiêu cách, giống như mạn tâm sở, song "Mạn tâm sở" là kinh dễ lấn lướt người, còn "Kiêu tâm sở" là ỷ tài năng của mình mà khinh ngạo xem thường người.

- Thứ hai là Trung tùy gồm có 2 món: Vô tàm và Vô quý:

11. Vô tàm: Tức là tánh không biết hổ thẹn với chính mình về những việc xấu, ác, bất thiện mà mình đã làm. 

12. Vô quý: Là tánh không đếm xỉa đến người khác, không biết hổ thẹn với mọi người xung quanh về những việc ác và bất thiện đã làm.

- Thứ ba là 8 thứ Đại tùy gồm có: Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh tri.

13. Trạo cử: Chao động, làm chướng ngại tu Chỉ; trái với Định tâm sở trong vị Biệt cảnh.

14. Hôn trầm: Tối mờ, thân tâm luôn trọng trược, nặng nề làm chướng ngại tu Quán; trái với Huệ tâm sở.

15. Bất tín: Không tin, trái với Tín tâm sở trong 11 món thiện.

16. Giải đãi: Trễ nải, lười biếng, không chịu tu trì các pháp thiện, trái với Cần tâm sở trong 11 món thiện.

17. Phóng dật: Buông lung, phóng túng, trái với "Bất phóng dật" trong Thiện tâm sở.

18. Thất niệm: Không nhớ, làm chướng ngại Chánh niệm và đưa đến Tán loạn trái với "Niệm tâm sở" trong vị Biệt cảnh.

19. Tán loạn: Rối loạn, tâm lăng xăng rối loạn; trái với "Định tâm sở" trong vị Biệt cảnh.

20. Bất chánh tri: Biết không chơn chánh, khi đối với cảnh hiểu biết sai lầm, không có chánh kiến.

C. Năm thứ bất thiện pháp

 Ngoài ra Ông phải biết Ma phiền não trong tâm như con rắn độc màu đen ở trên đầu, nếu không cẩn thận ắt tính mạng có thể diệt vong. Nên Kinh Niết Bàn nói: "Phiền não tức là pháp ác". Phiền não thì danh từ rất nhiều ở trên tôi chỉ lược nói, nếu tóm lược lại thì cũng không ngoài 5 thứ bất thiện pháp. Những gì là 5? Đó là:

- Giác quán bất thiện pháp

- Tham dục bất thiện pháp

- Sân khuể bất thiện pháp

- Ngu si bất thiện pháp

- Ác nghiệp bất thiện pháp

Nếu đem 5 pháp bất thiện trên chia ra thì Giác quán bất thiện pháp là do tam độc là tham, sân, si phát sanh, nên thuộc về Tập nhân đẳng phần; còn Ác nghiệp chướng đạo thuộc về Báo nhân đẳng phần. Luận về căn bản phiền não thì chỉ có Tam độc đẳng phần. Năm thứ bất thiện trên đây nếu nói tổng quát có 4 phần, còn luận rộng ra thì có tám mươi bốn ngàn (84.000), như trong luận Ma Ha Diễn nói: "Tham dục phiền não tổng cộng có hai mươi mốt ngàn thứ (21.000). Sân phiền não tổng cộng có hai mươi mốt ngàn (21.000). Ngu si phiền não tổng cộng có hai mươi mốt ngàn (21.000). Đẳng phần phiền não tổng cộng có hai mươi mốt ngàn (21.000)". Đẳng Phần phiền não mà Luận Ma Ha Diễn nói là Báo nhân đẳng phần. Bốn phần phiền não như Đại Luận nói tổng cộng có tám mươi bốn ngàn thứ (84.000) phiền não trần lao, nên Đức Phật thuyết tám mươi bốn ngàn pháp môn để đối trị. Nay chỉ nói 5 thứ ác pháp bất thiện để luận về tướng Ma sự khai phát.

Đấy là tôi đã lược nói một cách tổng quát về hiện tượng Ma phiền não phát sinh.