Thứ Tư, 7 tháng 4, 2021

 MẬT GIỚI KIM CƯƠNG

Đây là đoạn Pháp thoại Sư Phụ Long Viễn khai thị cho Sư Cô- một hành giả của Kim Cương Thừa cũng là đệ tử của Ngài về tinh túy Giới Nguyện bí mật và phẩm vị tu chứng trong Kim Cương Thừa .

***

 Sư Cô Bạch : 

Xin Sư Phụ chỉ cho con biết căn bản tội hay Giới Nguyện căn bản của người tu theo Kim Cương Thừa được không ạ?

Sư Phụ dạy: 

Con phải biết Kim Cang Thừa là giai đoạn cao nhất của Đại Thừa, một hành giả thật sự tu theo Kim Cương Thừa phải dùng Đại Bồ Đề Tâm để thâm nhập vào kho tạng bí mật của chư Phật, phải dùng tâm Kim Cương với tịnh tín vô biên nơi vị Đạo Sư của mình mà thẳng tiến vào rừng rậm ma ý, với gia trì hạnh của vị Đạo Sư cùng chư vị Bổn Tôn mà chấn nhiếp Ma quân, viên thành tuệ giác vô lậu, thành tựu "Tam Mật Tương Ưng, Tức Thân Thành Phật". Cho nên ngoài thọ trì và gìn giữ Giới Ba- la- đề- mộc- xoa thì hành giả Kim Cương sau khi nhận quán đảnh còn phải tuyệt đối nhận lãnh và vâng giữ một loại Giới nữa đó là Giới Nguyện Kim Cương, hay Tam Muội Da GiớiTam Muội Da được xem là Giới của Mật Chú, Tam Muội Da dùng để điều phục những phiền não trong tâm nhờ sự tuân giữ và thực hành Giới Luật của nó. Chữ TAM MUỘI DA có nghĩa là lời thệ nguyện, thề, giới, v.v...Kinh Tập Hội Các Phẩn Nộ Kim Cang có dạy: "Phải không bao giờ được vi phạm sự ràng buộc tối thượng này. Vì nếu phạm, ta sẽ bị đốt cháy." Chính Tam Muội Da Giới này sẽ giúp hành giả thể nhập vào biển tịch diệt của chư vị Bổn Tôn, nhận lãnh sự gia trì tối hậu từ những vị Bổn Tôn, cũng như từ vị Đạo Sư của mình. Nếu vị nào không tuân giữ đúng những Giới Nguyện hay Tam Muội Da Giới này thì những vị này không phải là những hành giả Kim Cương, khi dụng công tu trì Chân Ngôn sẽ rơi vào ma nghiệp, rơi vào những năng lực của quỷ thần, trở thành quyến thuộc của tà ma yêu mị; dù có thọ nhận quán đảnh nhưng pháp không thành, pháp đã không thành mà tu trì Chân Ngôn tức vượt Tam Ma Da, khi chết đọa địa ngục không kịp trở tay. Đây là những chỉ dạy tối hậu mà Đức Thế Tôn đã khai thị rất rõ trong các Kinh điển Mật Thừa: Du Già Mẫu Bộ, Đại Nhật Kinh, Kim Cương Đảnh Kinh, Tô Tất Địa... Nếu đã bước vào cửa tu hành theo Kim Cương Thừa thì con phải tuyệt đối y giáo phụng hành Tam Muội Da Giới, đừng cho trái phạm, có như thế con mới trở thành một hành giả Kim Cương đúng nghĩa, con sẽ nhận được tất cả ân đức gia trì tối hậu, thành tựu Phước Trí vô biên, thần lực không thể nghĩ bàn, tuyệt nhiên sẽ vượt qua tất cả chướng ngại, chấn nhiếp Ma quân mà thành tựu Đại Nguyện, viên thành tuệ giác và thân tướng của một vị Phật ngay trong đời này. 

Như thế cho nên con hãy chánh tâm chánh ý nghe thật kỹ và như lý tác ý, Sư Phụ sẽ nói tội căn bản hay còn gọi là Giới Nguyện căn bản của một hành giả Kim Cương Thừa. Một hành giả Kim Cương thì tuyệt đối không được trái phạm các Giới Nguyện sau và phải vâng giữ chúng như tròng mắt của mình:

1.Không được phỉ báng khinh chê vị Đạo Sư, phải tuân thủ ý chỉ vị Đạo Sư, không được trái lệnh vị Đạo Sư của mình.

2. Không được không tin Tam Bảo

3. Không được không tin Chân Ngôn.

4. Không được coi khinh Giới Luật.

5. Không được chỉ trích Kim Cương pháp hữu.

6. Không được bỏ Từ tâm đối với chúng sanh.

7. Không được từ bỏ Bồ Đề Tâm, gồm có Bồ Đề Tâm nguyện và Bồ Đề Tâm hạnh.

8. Không được khinh chê pháp Hiển giáo và Mật giáo.

9. Không được tiết lộ các bí mật cho người không xứng đáng. 

10. Không được hành hạ xác thân mình hay cung phụng nó quá mức.

11. Không được từ bỏ Tánh Không.

12. Không được nương tựa ác tri thức.

13. Không được không giữ vật Tam Muội Da (Chày, chuông...), tức phải giữ vật Tam Muội Da.

16. Không được coi khinh nữ giới. 

Đó là những Giới Nguyện căn bản hay những tội căn bản mà một hành giả đích thực của Kim Cương thừa tuyệt đối không được trái phạm.

Sư Cô Bạch: 

Nguyện xin Sư Phụ cho con biết những Tam Muội Da phụ của Kim Cương Thừa, được không ạ?

Sư Phụ dạy: 

Đối với hành giả Kim Cương thì phải thực hành vâng lãnh Tam Muội Da phụ của Kim Cương Thừa như sau: 

1. Ngưng ác- diệt ác pháp, sanh thiện- tăng trưởng thiện pháp. Đó là nền tảng thiết yếu. Phải tu thiện pháp và từ bỏ ác pháp. Thiện pháp là gì? Tức là tuân giữ ngũ giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm (Xuất gia thì không dâm dục), không nói dối và không uống rượu. Ngược lại với thiện pháp tức là ác pháp, nghĩa là không tuân thủ ngũ giới. 

2. Dứt bỏ gốc ác pháp thành tựu gốc thiện pháp. Gốc ác pháp là gì? Đó là tham, sân, si. Ngược lại gốc ác pháp tức là gốc thiện pháp: vô tham, vô sân, vô si.

3. Tuyệt đối chí thành y chỉ vào vị Đạo Sư và phải kính trọng những Kim Cương pháp hữu.

4. Từ bỏ những nguyên nhân khiến xa rời Đại Thừa.

5. Không được khinh chê Chư Thiên Hộ Pháp, thường xưng tán, ca ngợi, cúng dường chư vị với tâm chí thành.

6. Không được giẫm đạp lên những vật linh thiêng.

Sư Cô bạch: 

Xin Sư Phụ từ bi chỉ dạy thêm cho con biết những tội lỗi vi phạm nặng của một hành giả Kim Cương, để con và những huynh đệ đồng tu biết mà gìn giữ không cho sai phạm ạ?

Sư Phụ dạy: 

Đây là những điều rất quan trọng, nếu hành giả Kim Cương không biết thì việc hành pháp nhất định không thành. Con phải ghi nhớ kỹ và truyền dạy lại tội lỗi vi phạm nặng của một hành giả Kim Cương cho những huynh đệ đồng tu với mình, để tránh những sai phạm đi đến hủy diệt công hạnh Kim Cương khiến sa đọa vào các đường ác mà không hay biết.

1. Thực hành pháp kết hợp một Ấn mà không đủ ba nhận thức: 1/ Thân ta là Bổn Tôn. 2/ Khẩu ta là Chân Ngôn. 3/ Tâm ta là Pháp Thân.

Tuy nhiên con phải lưu ý để ba nhận thức này tròn đủ với chánh trí thì đương nhiên một hành giả Kim Cương phải thực hành qua các bước sau: Thứ nhất phải diệt ngã, xả tâm và ly dục ly ác pháp. Thứ hai phải phát Bồ Đề Tâm. Thứ ba phải chánh quán với trí tuệ thể nhập và chứng ngộ Tánh Không. Nếu không thì hoàn toàn bất khả. Nếu không qua ba bước này thì không thể trở thành một hành giả Kim Cương, đã không phải là một hành giả Kim Cương mà thực hành Chân Ngôn đi vào Đàn Pháp sẽ rơi vào những năng lực của quỷ thần, trở thành quyến thuộc của chúng, đi vào ma đạo. 

2. Nương tựa và thực hành một Ấn pháp mà không đủ phẩm chất, tức là không thích hợp.

3. Chỉ dạy những Mật Pháp bí yếu cho người không xứng đáng.

4. Cãi cọ hay đánh lộn trong những buổi đại lễ cúng dường chư vị Bổn Tôn.

5. Giải đáp sai những câu hỏi của tín đồ.

6. Ở bảy ngày trong nhà gia chủ chống đối Kim Cương Thừa.

7. Trá hiện oai nghi, giả vờ mình là một hành giả trong khi đó mình chưa hoàn thiện.

8. Tiết lộ những chất liệu bí mật cho người bất tín.

9. Hành Đàn ( Mandala ) mà chưa hoàn tất nhập thất độc cư.

10. Không cần thiết mà phạm giới Bồ Tát hay Ba- la- đề- mộc- xoa.

11. Làm ngược lại với những chỉ dạy của vị Đạo Sư, không thường xuyên cúng dường Đạo Sư, không tôn thờ và kính ngưỡng vị Đạo Sư của mình như một vị Phật...

Sư Cô thưa hỏi tiếp: 

Kính bạch Sư Phụ, Trong Mật Thừa có tổng cộng năm Bộ chính là:

1. Phật Bộ, tức các Chân Ngôn do Phật thuyết

2. Liên Hoa Bộ, tức các Chân Ngôn do Bồ Tát thuyết

3. Kim Cang Bộ, tức các Chân Ngôn do Kim Cang Thần thuyết

4. Bảo Bộ, tức Chân Ngôn do Chư Thiên tuyên thuyết

5. Yết Ma Bộ, tức những Chân Ngôn do chư vị Quỷ Thần Hộ Pháp thuyết.

Năm bộ chính này mỗi bộ có 5 Bộ nhỏ, thành 25 Bộ.  Nguyện xin Sư Phụ cho con biết Tam Muội Da Giới của 5 Bộ chính ở trên được không ạ?

Sư Phụ dạy:  

Tam Muội Da Giới của 5 Bộ chính trong Kim Cương Thừa như sau:

1/ Phật Bộ Tam Muội Da là ba lời nguyện quy y.
2/ Kim Cang Bộ Tam Muội Da là không trì giữ (thủ hộ) chày, chuông, ấn và Kim Cang Đạo Sư.
3/ Bảo Bộ Tam Muội Da là không bao giờ quên bốn bố thí: Bố thí tình thương, bố thí tài vật, bố thí sự không sợ hãi (vô úy thí) và bố thí pháp.
4/ Liên Hoa Bộ Tam Muội Da là không giữ trọn vẹn pháp
5/ Yết Ma Bộ (Nghiệp Bộ) Tam Muội Da là: a/ Không giữ nguyện và Tam Muội Da đã thọ nhận và b/ Không kiên nhẫn tu cúng dường.

Tất cả gồm có 14 Tam Muội Da, trong đó Phật Bộ có 3, Kim Cang Bộ có 4, Bảo Bộ có 4, Liên Hoa Bộ có 1 và  Yết Ma Bộ có 2.

Đó là YOGA TANTRA SAMAYA, Tam Muội của Du Già Bộ. Còn ANUTTARA TANTRA SAMAYA, Tam Muội Da của ANUTTARA TANTRA tức là Tối Thượng Du Già Mật thì như sau:

1/ Phật Bộ: Là phát Bồ Đề Tâm và hành Bồ Đề Tâm, giữ gìn tam tụ tịnh giới và thực hành quy y; theo mật nghĩa thì Tam Bảo được xem là tự tánh thanh tịnh giác (Bồ Đề Tâm) của sự bất phân biệt giữa Chân Không, Đại Lạc và Bản Tánh, nương vào đó mà thành Phật thân.

2/ Kim Cang Bộ: Phải giữ như tài sản của mình các vật Tam Muội Da: Chuông, chày, và phải liễu tri tự tánh là bổn tôn với Đại Ấn. Theo mật nghĩa, chày kim cang là phương tiện tánh, ngọc như ý (dâm căn) của nam; chuông là trí huệ tánh, liên hoa (dâm căn) của phái nữ; và Ấn là sự kết hợp cả hai. Khi chất bí mật trắng và đỏ của Bồ Đề Tâm trộn với nhau nhờ sức nóng và sự tan chảy, tánh bất biến của Đại Lạc không rời với Không tánh là Đại Ấn cần được tu, kinh nghiệm vê bản giác bất nhị là Đại Ấn. Hành giả phải kính trọng Đạo Sư, người đã tiết lộ tánh như thị này.

3/ Bảo Bộ là bốn bố thí: Tài vật thí, pháp thí, vô úy thí và đại từ thí. Cả bốn phải tu sáu thời một ngày theo nghĩa mật.

4/ Liên Hoa Bộ:
a. Phải nương tựa theo lời dạy trong Kinh (hiển giáo),
b. Phải theo lời dạy trong Thừa thấp (kriya và carya),
c. Phải theo lời dạy trong Thừa cao (yoga và anuttara yoga). Tức là phải văn tư tu mọi giáo pháp của đức Phật.

5/ Yết Ma Bộ:
a. Phải cúng dường bậc Đạo Sư (cúng dường từ bên ngoài, bên trong, bí mật và như như)
b. Cố gắng giữ thanh tịnh mọi thệ nguyện đã thọ.

Sư Cô bạch tiếp: 

Kính thưa Sư Phụ một hành giả Kim Cương đã phát Bồ Đề Tâm, cần tuân giữ những Giới nào để giữ gìn Bồ Đề Tâm, để Bồ Đề Tâm ngày càng tăng trưởng đến thành tựu không ạ?

Sư Phụ dạy: 

Một hành giả Kim Cương Thừa, cần phải vâng giữ tám Giới để trụ và thành tựu Bồ Đề Tâm, tám giới như sau:

1. Phải nhớ nghĩ tưởng đến lợi ích của Bồ Đề Tâm ngày sáu thời.

2. Phải phát Bồ Đề Tâm mỗi ngày sáu thời.

3. Không được từ bỏ chúng sanh.

4. Phải tu tập hai thứ Phước và Trí.

5. Không được lừa dối vị Đạo Sư hay vị Giáo Thọ của mình.

6. Không được làm kẻ khác hối tiếc về thiện nghiệp của họ.

7. Không được chỉ trích kẻ đã vào Đại Thừa.

8. Không được giả vờ đạo đức hay giấu lỗi nếu không vì ý tốt đặt biệt lợi ích cho người và cho chúng sanh.

Sư Cô bạch thưa: 

Thưa Sư Phụ Tam Muội Da Giới còn gì nữa không ạ?

Sư Phụ dạy:

 Bởi vì tất cả hành giả Kim Cương đều phát Bồ Đề Tâm, thì đương nhiên phải giữ gìn giới Bồ Tát, nay con thưa hỏi thì Sư Phụ cũng trùng tuyên lại giới Bồ Tát, con hãy chánh tác ý lắng nghe để thực hành nghiêm các học giới của Bồ Tát:

I/ BỒ TÁT NGUYỆN GIỚI CĂN BỔN TỘI:

1/ Khen mình chê người
2/ Không bố thí pháp hay tài vật
3/ Không chấp nhận sự sám hối của kẻ khác
4/ Bỏ pháp Đại Thừa
5/ Trộm của Tam Bảo
6/ Bỏ Phật pháp
7/ Đoạt Tăng Y
8/ Phạm ngũ vô gián tội (giết cha, giết mẹ, giết a la hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu)
9/ Chấp thủ tà kiến (đoạn, thường, không nhân quả, v.v...)
10/ Hủy diệt chỗ ở (thí dụ: thành phố, nhà cửa, v.v...)
11/ Giảng tánh Không cho người chưa xứng đáng
12/ Khiến người khác bỏ Đại Thừa
13/ Khiến người khác phạm Giới (bỏ Giới)
14/ Coi khinh Tiểu Thừa
15/ Thuyết sai về chơn Không
16/ Nhận tài sản trộm từ Tam Bảo
17/ Chế ác Giới
18/ Từ bỏ Bồ Đề Tâm

II/ BỒ TÁT NGUYỆN GIỚI (PHỤ):

A/ Vi phạm chướng ngại Bố Thí Ba- la- mật:

1/ Không cúng dường Tam Bảo mỗi ngày 
2/ Dễ duôi luyến ái trong các dục thế gian 
3/ Không kính trọng những kẻ đã thọ Bồ Tát Giới trước mình
4/ Không trả lời người hỏi
5/ Không nhận sự thỉnh mời
6/ Không nhận quà biếu
7/ Không bố thí pháp cho người mong cầu

B/ Các vi phạm chướng ngại Trì Giới Ba- la- mật:

8/ Bỏ rơi kẻ đứt Giới
9/ Không làm các pháp khiến kẻ khác phát tín tâm
10/ Hành lợi tha quá ít
11/ Không tin hạnh từ bi của chư Bồ Tát là thanh tịnh
12/ Tà nghiệp để chiếm hữu tài sản và danh vọng
13/ Dễ duôi trong các việc vô ích
14/ Nói rằng Bồ Tát chẳng cần rời (bỏ) luân hồi
15/ Không tránh tai tiếng
16/ Không giúp tha nhân tránh ác nghiệp

C/ Các vi phạm chướng ngại Nhẫn Nhục Ba- la- mật:

17/ Trả thù, làm hại hay phỉ báng
18/ Không sám hối khi có cơ hội
19/ Không chấp nhận sự sám hối của kẻ khác
20/ Không cố khắc phục sân hận

D/ Vi phạm làm chướng ngại Tinh Tiến Ba- la- mật:

21/ Vì tham cầu lợi dưỡng hay kính trọng mà nhận vòng hoa
22/ Không cố vượt qua sự giải đãi
23/ Dễ duôi thích thú trong sự trò chuyện nhãm nhí

E/ Vi phạm làm chướng ngại Thiền Định Ba- la- mật:

24/ Không để tâm (xao lãng) tu tập thiền định
25/ Không khắc phục những chướng ngại lúc tu định
26/ Bị định kiến trước về những trạng thái thiền định

 F/ Vi phạm làm chướng ngại Trí Huệ Ba- la- mật:

27/ Bỏ pháp Tiểu Thừa
28/ Nghiên cứu Tiểu Thừa làm tổn hại đến việc tu Đại Thừa
29/ Học các pháp không phải là Phật pháp mà không có lý do chính đáng
30/ Tự mình mê say trong các pháp không phải là Phật pháp lấy đó làm chủ yếu
31/ Chỉ trích các hệ Đại Thừa khác
32/ Khen mình chê người
33/ Không cố học pháp
34/ Thích nương tựa và Kinh Luận sách vỡ hơn là nương tựa vào vị Đạo Sư của mình

Phần trên là các vi phạm làm chướng ngại giới đức tự lợi và lợi tha.

G/ Các vi phạm làm chướng ngại Giới Đức lợi tha:

35/ Không giúp đỡ những người cần giúp đỡ
36/ Thờ ơ chăm sóc bệnh nhân
37/ Không hành hạnh diệt khổ
38/ Không giúp tha nhân khắc phục những thói đức xấu
39/ Không giúp lại những kẻ làm lợi ta
40/ Không làm dịu (an ủi) sự đau buồn của tha nhân
41/ Không cho người cần bố thí
42/ Không cẩn trọng giữ Giới
43/ Không làm theo khuynh hướng tha nhân (tùy thuận chúng sanh)
44/ Không tán thán đức hạnh kẻ khác
45/ Không tác hạnh phẫn nộ khi thích ứng
46/ Không sử dụng thần thông, hạnh đe dọa, v.v...

Sư Cô bạch hỏi tiếp: 
 
Bạch Sư Phụ làm sao để giữ gìn Tam Muội Da Giới ạ?

Sư Phụ dạy: 

Để giữ gìn Tam Muội Da Giới không cho trái phạm con phải thực hành các bước sau đây:

1. Phải luôn luôn tôn kính và tôn thờ vị Đạo Sư trên đảnh của mình.
2. Phải biết Pháp và Tùy Pháp Hành, để giữ gìn chánh niệm, nhiếp phục vọng tâm, diệt ngã và ly tất cả các ác- bất thiện pháp.
3. Thường xuyên lễ lạy Bồ Đề Tâm và nguyện cầu thập phương thường trụ Tam Bảo, tất cả Thiên Long Bát Bộ ban ân đức hộ trì.
4. Thường xuyên cúng dường vị Đạo Sư với bốn tính chất: Bên ngoài, bên trong, bí mật và như như.
5. Thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, tôn kính và tuân thủ các học Giới.
6. Thường quán chiếu và nhìn lại chính mình, xem có vi phạm hay không.
7. Hoan hỷ và tùy thuận chúng sanh.

Đó là Sư Phụ lược nói cho con 7 cách để để giữ gìn Tam Muội Da Giới, nếu phân tích rộng ra thì diệu ý không thể nghĩ bàn.

Sư Cô hỏi tiếp:

Kính thưa Sư Phụ nếu hành giả Kim Cương lỡ phạm Tam Muội Da Giới thì phải làm sao?

Sư Phụ giải đáp:

Tuyệt nhiên không cho trái phạm, nếu trái phạm sẽ đọa vô lượng kiếp trong địa ngục Hắc Ám, địa ngục Kim Cương... tùy theo tội đã phạm.
Còn nếu đã lỡ sai phạm thì phải biết tất cả Giới đức không còn, tất cả thiện căn thuận phần giải thoát đã mất, chỉ nên ăn năng sám hối tội lỗi đã phạm, thệ nguyện không bao giờ tái phạm lại nữa, phải phát lồ trước vị Đạo Sư, sau đó nguyện xin thọ nhận quán đảnh trở lại, và chí thành cầu thỉnh thọ Tam Muội Da giới trở lại. Đó là Sư Phụ nói lỡ phạm, còn cố ý phạm và không biết hổ thẹn thì người ấy xem như vứt ngoài biển Phật pháp, chờ đợi là địa ngục phía trước... cho nên Kinh Samvarodaya:

"Người muốn được thành tựu tối cao
Thì sự hy sinh thân mạng cũng là dễ
Đến lúc lâm chung, họ vẫn an nhiên
Vậy hãy luôn giữ Tam Muội Da."

Sư Cô lại tác bạch:

Thưa Sư Phụ! Nếu hành giả Kim Cương tuân giữ Tam Muội Da Giới mật nghiêm và thực hành Đại Pháp với một Ấn thành tựu thì trình tự thủ chứng đại quả trong Kim Cương Thừa như thế nào ạ? Nguyện xin Sư Phụ từ bi chỉ dạy cho con, và các huynh đệ đồng môn biết rõ để làm động lực tiến tu, được không ạ?

Sư Phụ từ bi chỉ dạy:

Sự thành tựu thủ chứng có 9 phẩm:

1. Hạ phẩm có ba:

a. Hạ phẩm nếu thành tựu có thể nhiếp phục tứ chúng, hàng phục quỷ thần, tùy tâm nguyện đều được thành tựu, Thiên Long Hộ Pháp thường đến thăm hỏi...
b. Trung phẩm thành tựu: Có thể sai khiến tất cả Thiên Long Bát Bộ, có thể khai mở các kho tàng giấu kín, hoặc đến đi tự tại nơi A Tu La cung...
c. Thượng phẩm thành tựu: Phi hành biến hóa trên hư không, hay trong lòng đất đều không chướng ngại, cởi mây dạo chơi tùy tâm du hý, có thể được tiên đạo.

2. Trung phẩm có ba:

a. Hạ phẩm thành tựu: Có thể làm vua trong các tiên chú, thọ mạng vô lượng, phước đức trí huệ đệ nhất trong ba cõi.
b. Trung phẩm thành tựu: Đạt được thần thông qua lại các thế giới, làm Chuyển Luân Thánh Vương, trụ thọ một kiếp.
c. Thượng phẩm thành tựu: Có thể chứng từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên.

3. Thượng phẩm có ba:

a. Hạ phẩm thành tựu: Chứng từ Ngũ Địa Bồ Tát trở lên.
b. Trung phẩm thành tựu: Chứng từ Đệ Bát Địa Bồ Tát trở lên.
c. Thượng phẩm thành tựu: Thành tựu Tam Thân Phật chứng Vô Thượng Bồ Đề.

Còn nếu căn cứ theo Thần Biến Sớ thì có năm phẩm thành tựu, đó là:
1. Hiện đến Tín Vị.
2. Đạt đến Sơ Địa.
3. Đến Tứ Địa.
4. Đến Bát Địa.
5.Đạt thành Phật quả.

***
Sau khi nhận lãnh những lời giáo giới tối hậu của Sư Phụ, Sư Cô hoan hỷ vô cùng, thệ nguyện trước Sư Phụ mình sẽ tinh tấn tu hành và quyết tâm hiến mình cho Pháp, đôi mắt Cô rạng ngời pháp lạc không gì so sánh... Sư Cô đảnh lễ Sư Phụ, tạ Pháp cúng dường và lui ra.


Thứ Ba, 6 tháng 4, 2021

 CHỨNG VÔ NGÃ

THẤY THỰC TƯỚNG CÁC PHÁP TỨC THỜI


Một hôm ánh tịch dương tà tà xuyên qua rừng vắng, phản chiếu trên những chiếc lá rơi như những ánh bạc lẫn vàng tạo nên một không gian tuyệt thế, tiếng lá rơi hòa lẫn tiếng suối róc rách và tiếng những chú chim hót trên những táng cây... Phải chăng tịnh độ là đây? Phải chăng "Tâm tịnh thì quốc độ tịnh?" Sư Phụ Long Viễn chóng gậy đi thiền hành cùng theo sau Ngài là một vị Thầy trẻ... Bấy giờ bỗng có một cơn gió đi qua làm khua động cánh rừng,  cuốn theo một trận mưa lá rơi trước mặt Sư Phụ, Sư Phụ quay lại nhìn vị đệ tử theo sau mình và hỏi:

- Con có thấy những chiếc lá rơi kia không?

Vị Thầy trẻ đáp:

- Dạ thưa Sư Phụ có ạ!

Sư Phụ mỉm cười nhẹ trong nụ cười hàm tiếu và hỏi:

- Nhìn những chiếc lá rơi, con có nghĩ là mình đang rơi không?

- Dạ không ạ! _ Đệ tử trả lời.

- Vì sao con không khởi nghĩ những chiếc lá rơi là con đang rơi?_ Sư Phụ hỏi.

- Dạ vì con là con, còn những chiếc lá kia là những chiếc lá, con không là nó và nó cũng không là con ạ!_ Đệ tử trả lời.

Sư Phụ dạy:

- Cũng vậy, thân này của con, nó cũng không phải là con, thế tại sao vì nó mà con lại sanh phiền não?

Vị Thầy trẻ lập tức chấp tay và thưa:

- Con không hiểu lắm, Sư phụ thương con chỉ dạy cho con, được không ạ?

Sư Phụ vừa đi vừa nói:

- Con hãy lắng nghe kỹ và khéo tác ý, Sư Phụ sẽ nói rõ cho con hiểu, hiểu để quán, quán để đoạn kiến chấp tùy miên "tôi là", khi con không có cái gì "là tôi" thì ngay đó con giải thoát, trong sự giải thoát biết mình đã giải thoát, con sẽ biết rõ "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, sau đời hiện tại không còn một đời sống nào khác nữa!"

Con phải biết pháp sanh khởi thì là pháp hữu vi, đã là pháp hữu vi tức là phải có ba tướng là: sanh, trụ và diệt. Trong mỗi tướng vừa nói cũng có ba tướng kia, và nếu cứ như thế tức vô cùng, đã vô cùng thì tức chẳng phải hữu vi nữa. Sự sanh khởi sản sinh ra sự sanh khởi, tức là hạt nhân đầu tiên sanh khởi quả rồi từ quả đó lại làm nhân và cũng lại sanh ra quả: sanh sanh tương tục như thế cho đến vô cùng, nghĩa là  sự sanh khởi được sản sanh từ nơi nguồn gốc của sự sanh khởi và cái sanh sản ra nguồn gốc sanh sản trở lại được sanh ra từ nơi cái vừa được sanh ra... thế thì hữu vi tức chẳng phải hữu vi vậy, đúng không con? Còn nếu con cho rằng các pháp được sanh ra từ các duyên tức nhiều yếu tố, điều kiện... thì nó- pháp đó chính là tịch diệt tánh, đã tịch diệt thì không thể sanh khởi, vì tự tánh của pháp đó là tịch lặng rỗng không, không có tự tánh; như thế thì vật được sanh khởi (sanh pháp) và (cái gọi là thời gian) đang sanh cả hai đều tịch diệt (vắng lặng rỗng không). Nếu các pháp đang trong trạng thái hủy diệt, và đang hủy diệt thì lẽ ra không sanh khởi và nếu các pháp không là đang hủy diệt thì hoàn toàn không có sự việc như thế. Pháp bất trụ thì chẳng dừng một chỗ, pháp đứng yên một chỗ cũng chẳng đứng yên, lúc đang đứng yên cũng chẳng đứng yên, vì (vô sanh) đã không có sự sanh khởi thì làm gì có sự đình trụ (đứng yên)? Thêm nữa, nếu các pháp đang hủy diệt thì đúng ra không có đình trụ, và các pháp nếu không là đang diệt thì việc đó hoàn toàn không có bao giờ, vì sao? vì đã là pháp hữu vi tức phải sanh diệt vô thường. Vậy thì sự đình trụ không đình trụ nơi chính tự tướng và cũng chẳng đình trụ nơi dị tướng. Pháp đã diệt thì không diệt, pháp chưa diệt thì cũng chẳng diệt và pháp đang diệt thì cũng chẳng diệt vì đã vô sanh tức là không có sự sanh khởi thì làm gì có sự hủy diệt? Các pháp nếu đã đình trụ thì không thể diệt, đã diệt thì không đình trụ, pháp đó đang khi trụ, không thể đồng lúc diệt, tự tướng của các pháp chẳng diệt, tha tướng của các pháp cũng chẳng diệt; giống như tự tướng (các pháp) chẳng sanh khởi mà tha tướng cũng chẳng sanh khởi. Sanh, trụ, diệt đã bất thành cho nên không có pháp hữu vi, mà hữu vi pháp đã không thì pháp vô vi há lại có ư? 

Quán chiếu thân, tâm, các pháp như thế, cũng như những chiếc lá rơi trước mặt kia thì tịch diệt không phải hiện tiền đây ư? Không phải chứng vô ngã tức thời hay sao? Bởi thế cho nên Đức Phật mới dạy: Pháp của ta chân thật và hiện tại, không có thời gian đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ có người trí mới tự mình giác hiểu. Pháp vốn vô ngã, tự giải thoát, đâu có trói buộc mình; chính mình tự trói buộc mình nơi các pháp mà thôi, hiểu với trí tuệ giác chiếu nơi các pháp: thực tướng vô tướng vô bất tướng như vậy liền vào Tam Ma Địa mà thẳng nhập Nhất Thiết Trí. 

- Xin Sư Phụ từ bi khai thị thêm cho con vì con không đủ trí để quán chiếu thực tướng các pháp mà chứng vô ngã tức thời ạ? _ Vị Thầy trẻ đi sau Sư Phụ từ tốn thưa.

Sư Phụ vừa chóng gậy đi vừa dạy tiếp:

- Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ Thế Tôn nói với năm vị Tỳ Kheo ở tại đấy:

“Này các thầy, sắc không phải là ta, là tự ngã. Nếu sắc là ta thì sắc sẽ không gây đau khổ (bệnh tật) và đối với thân thể ta có thể ra lệnh:  "Thân tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi”. Thế nhưng, bởi vì thân thể không phải là ta, nên nó không tránh khỏi bệnh tật và không ai có thể ra lệnh cho thân thể: “Thân tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi”.

Thân này trước giờ con luôn cho rằng nó là con, là của con, là sở hữu của con, thế thì con bảo nó: "Thân của ta không được già, không được bệnh, không được chết... nó có nghe con không?"

- Dạ không ạ! _ Vị Thầy trẻ đáp.

- Nếu con bảo nó không nghe, thì đích thực nó không phải sở hữu của con, không phải là con, tại sao thế? Vì thân này bản chất là vô thường, cái gì vô thường thì phải tan rã, biến hoại và đoạn diệt, cho nên con phải chánh quán với trí tuệ: "Thân này nó không là ta, no không phải là của ta, ta không sở hữu nó. Ta như thế thì tất cả chúng sanh cũng đều như thế"

Thọ, tưởng, hành, thức và các pháp con cũng phải chánh quán như vậy. Khi chánh quán với trí tuệ như thế thì con sẽ nhàm chán đối với thân và tâm này, cũng như nhàm chán với tất cả các pháp, do nhàm chán con ly tham, do ly tham con đoạn diệt tất cả các ác, bất thiện pháp, do đoạn diệt nên con giải thoát, trong sự giải thoát khởi lên trí biết rõ "tôi đang giải thoát", biết rõ "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không còn một đời sống nào khác nữa".

Sư Phụ kể cho con nghe câu chuyện này, chuyện kể về Tôn Giả được mệnh danh là thiền quán đệ nhất, để con có thể học hỏi.

Trong thời đức Phật hiện tại, Tôn Giả  Mahàkotthita được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu có và được đặt tên là Kotthita (Câu-hy-la). Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học ba tập Veda và thành tựu các đức tánh của vị Bà-la-môn, có lần Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia.  Khi đã xuất gia Ngài rất tin tấn thực hành thiền quán, sau khoảng thời gian ngắn ngài chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về Nghĩa và về Pháp, Ngài thường hỏi bậc Ðạo Sư và các vị Ðại Trưởng lão về hai vấn đề ấy và trở thành rất lão luyện thuần thục trong Pháp và Luật của Thế Tôn. Sau đó bậc Ðạo Sư đã chứng minh quả vị tu chứng của ngài và xác nhận ngài là bậc thiền quán đệ nhất.

Ngài có nói bài bài kệ rằng:

 "Tịch tịnh và chỉ tức,
Tụng đọc lời trí tuệ,
Tâm tư không tháo động,
Ác pháp được vứt bỏ,
Giống như những lá cây,
Bị gió thổi phiêu bạt".

...

Vị Thầy trẻ đệ tử Sư Phụ đi theo sau Ngài trong lòng hân hoan vô hạn, gương mặt ửng hồng như thấm nhuần mưa Cam Lồ diệu pháp, thệ nguyện quyết tâm thực hành lời giáo huấn của Sư Phụ, quyết một đời phải làm chủ sanh, già, bệnh, chết... noi gương của Sư Phụ mình!... Hai Thầy trò tiếp tục đi về phía trước trong cơn gió thổi những chiếc lá vàng bay...






Thứ Hai, 5 tháng 4, 2021

ĐẠO THANH TỊNH

(Đây là đoạn tham vấn của một Thiền giả với Sư Phụ Thích Long Viễn về Đạo Thanh Tịnh và tri kiến sở hành của một bậc Thánh)

***

Hỏi: Làm sao để được Đạo Thanh Tịnh?

Đáp: Nếu muốn được Đạo Thanh Tịnh thì phải dùng tuệ quán tất cả pháp là vô ngã, do quán vô ngã với các pháp nên tâm nhàm chán, yểm ly, ly tham, đoạn diệt khổ. Khi khổ đã đoạn diệt thì thành tựu cứu cánh Phạm Hạnh, cũng gọi là được Thanh Tịnh Đạo vậy. Như Kệ nói:

 "Nếu lúc dùng tuệ quán

Tất cả pháp vô ngã

Bấy giờ hay chán khổ

Là đạo được thanh tịnh."

Hỏi: Có pháp tu nào không cần dùng tuệ quán mà cũng được Đạo Thanh Tịnh chăng?

Đáp: Trong Phật pháp không có pháp này.

Hỏi: Vì sao gọi là tịnh?

Đáp: Là hai đế Diệt và Đạo.

Hỏi: Sao gọi là khổ?

Đáp: Là các pháp hữu lậu hữu thủ.

Hỏi: Sao gọi là thường?

Đáp: Là Niết Bàn tịch diệt.

Hỏi: Hành tướng vô ngã duyên nơi đâu?

Đáp: Duyên nơi tất cả pháp.

Hỏi: Hành tướng vô ngã duyên nơi tất cả các pháp, tự Thể của nó là gì?

Đáp: Lấy tuệ làm tự Thể. Cũng như tự Thể thì ngã vật, tướng phần, tự tánh cũng lại như vậy.

Hỏi: Vì sao hành tướng vô ngã Thầy nói duyên nơi tất cả các pháp?

Đáp: Vì lấy tuệ khởi hoạt dụng. 

Hỏi: Hành tướng vô ngã duyên nơi tất cả các pháp là hữu lậu hay vô lậu?

Đáp: Là hữu lậu, không phải vô lậu. 

Hỏi: Hành tướng vô ngã hữu lậu có thể đoạn trừ phiền não được không?

Đáp: Không thể đoạn trừ được.

Hỏi: Nếu đã không thể đoạn trừ được thì hành giả sao lại khởi?

Đáp: Hành giả phải khởi quán bởi vì muốn chứng Đạo Thanh Tịnh thì căn tánh phải nhạy bén để nhập Thánh đạo. Lại cũng có năm duyên mà hành giả muốn chứng Thánh quả phải khởi quán đó là:

1. Vì hiện pháp lạc trú.

2. Vì quán công việc vốn đã làm.

3. Vì công đức đạt diệu dụng.

4. Vì chí cầu đạo thanh tịnh.

5. Vì nhận dụng tài vật của Thánh.

Hỏi: Hành tướng vô ngã hữu lậu thì duyên nơi tất cả pháp, vậy hành tướng vô ngã vô lậu thì duyên vào đâu?

Đáp: Hành tướng vô ngã hữu lậu thì duyên nơi tất cả pháp, còn hành tướng vô ngã vô lậu thì duyên nơi Khổ đế.

Hỏi: Tại sao hành tướng vô ngã hữu lậu thì duyên nơi tất cả pháp, còn hành tướng vô ngã vô lậu thì duyên nơi Khổ đế?

Đáp: Vì hành tướng vô ngã hữu lậu không phải đối trị phiền não, đối trị điên đảo, vì không có duyên sai biệt, hoặc vì khi tu quán duyên nơi các pháp mà quán vô ngã. Còn  hành tướng vô ngã vô lậu thì duyên nơi Khổ đế bởi vì đối trị phiền não nên không duyên nơi tất cả pháp, tại sao? Vì không phải tất cả pháp đều thuận với tánh của phiền não. Lại nữa,  hành tướng vô ngã vô lậu thì duyên nơi Khổ đế bởi vì để đối trị điên đảo. bởi vì không phải tất cả pháp đều thuận với tánh của điên đảo. Lại, hành tướng vô ngã vô lậu thì  không duyên nơi tất cả pháp vì duyên sai biệt, vì duyên nơi cảnh giới của ngã kiến là vô ngã. Lại nữa, hành tướng vô ngã vô lậu khi hiện quán là tốt đẹp, nên không duyên nơi tất cả pháp, vì khi hiện quán chỉ duyên nơi Khổ đế là vô ngã.

Hỏi: Làm sao nhận biết được cái lầm của ngã và ngã sở?

Đáp: Kinh Bồ Tát Thiện Giới có phân biệt như sau:

"Trong pháp hữu lậu mà bảo thủ cái ta và sở hữu của ta, trong vô lượng đời, luôn luôn sanh tâm chấp giữ, so đo về bản ngã và những gì thuộc bản ngã. Đó gọi là cái lầm về ngã và ngã sở".

Hỏi: Nguyện trên Thầy cho biết Hữu thân kiến có bao nhiêu hành tướng?

Đáp: Tát- ca- da- kiến còn gọi là Hữu thân kiến có hai hành tướng, đó là hành tướng của ngã và hành tướng của ngã sở. Hay nói cách khác là ngã kiến và ngã sở kiến vậy.

Hỏi: Thưa Thầy! Ngã chánh yếu có bao nhiêu thứ?

Đáp: Ngã có hai thứ: Một là ngã của pháp. Hai là ngã của Bổ- đặc- già- la ( Hữu tình). 

Hỏi: Nguyện xin Thầy từ bi chỉ dạy làm sao để thực chứng vô ngã tướng, được không ạ?

Đáp: Ông hãy lắng nghe, khéo tác ý tôi sẽ vì ông mà lược nói.

Nếu muốn chứng vô ngã tướng thì căn bản phải ứng dụng theo các bước sau:

1. Hành giả phải tích lũy phước báo 

2. Thọ trì và tuân thủ các học giới

3. Buông xuống và từ bỏ sanh y

4. Trên sáu xúc xứ hoặc ngũ thủ uẩn tu Tứ Chánh Cần, lấy Bát Chánh Đạo làm nền tảng. Phân định với tuệ quán thành tựu thứ lớp chánh niệm tỉnh thức định và chánh niệm tỉnh giác định trên thân hành niệm, lấy Như Lý Tác Ý làm pháp hướng để định tâm và an trú trong chánh niệm tư duy pháp.

5. Trong khi các căn nhận biết các pháp nhạy bén rồi thì dụng tuệ quán các pháp vô ngã.

6. Khi tuệ quán các pháp vô ngã sẽ xuất sanh các thứ tà kiến, tà tưởng, hay linh quang chiếu hiện do định tâm vắng lặng mà lưu xuất ra 18 loại hỷ tưởng hay 50 ngũ ấm ma... đồng thời các pháp tướng quỷ thần cũng thường xuyên xuất hiện trong khi khởi quán. Hành giả phải khéo nhận biết hành tướng của nó, phần này tôi đã nói rất rõ, ông có thể tham cứu với các vị hành giả đang tu ở đây về kinh nghiệm và phương pháp nhận biết vượt qua các ma sự, nếu không thì phí uổng một cuộc đời tu.

7. Khi tuệ quán vô ngã nhập Thanh Tịnh Đạo lần lần sẽ đi vào các trạng thái thiền chứng, hành giả cần phải có một vị thầy có kinh nghiệm hướng dẫn mới được, còn không với tuệ căn thuận phần giải thoát cũng có thể vượt qua và thủ chứng. Nhưng tuệ căn thuận phần giải thoát này thật ra rất khó có.

 Các bước này thật ra là một, trong một có bảy, trong bảy gồm một, tôi tạm thời phân định cho ông dễ dụng công tiến tu.

Cố gắng!

Cố gắng!  

Sau khi tham vấn và phá nghi về vi diệu pháp, Thiền giả rất hoan hỷ và nguyện y pháp hành trì, sau đó đảnh lễ Sư Phụ rồi lui ra.





Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

 ĐỨC TA RA BỒ TÁT 

CHÚNG SANH CÓ NÊN QUY KÍNH PHỤNG THỜ?


Hỏi: 

Xin Thầy từ bi khai thị về Bồ Tát Ta Ra, để con minh liễu về Ngài có được không ? Con thấy hiện tại có nhiều người tôn thờ Thánh tượng của Ngài nhưng Ngài trong thân tướng nữ, con không biết gì về Ngài cả, nguyện xin Thầy từ bi diễn nói để con và chúng sanh hữu duyên có thể tôn kính và thờ phụng Ngài đúng pháp ạ?

Đáp: 

Tôi sẽ lược nói.

Ta Ra tiếng Phạn là Tàrà, có nghĩa là Cứu Độ, Diệu Mục Tinh, Cực Độ, Tinh Thần... Ta Ra Bồ Tát là vị Đại Sĩ có thể gia trì pháp giới, cứu độ tất cả chúng sanh, Ngài luôn luôn ban ân đức vào tâm của muôn loài, cứu giúp chúng sanh vượt qua tất cả ách nạn sợ hãi, bạt trừ tất cả chướng ngại và tịnh hóa tất cả nghiệp chướng của chúng sanh, chấp nhận mọi ước nguyện và tận lực dắt dìu chúng sanh đến bờ giải thoát, khiến cho chúng sanh viên thành bậc Chánh Giác. Ngài là người mẹ của tất cả các cõi giới từ chư thiên, quỷ thần cho đến loài người. Thần lực, trí tuệ và phương tiện độ sanh của Ngài không thể nghĩ bàn, Ngài có 4 danh tán, 21 hóa thân, 108 ứng thân, 500 tùy hình... Cho nên thế gian tôn Ngài là Đấng Cứu Thế Mẫu, Đa La Tôn, Pháp Cứu Tôn, Đạt Ma Đa La, Đa La Phật Mẫu, Độ Mẫu, Cứu Độ Phật Mẫu... 

Cách đây vô lượng kiếp về quá khứ có Đức Phật ra đời tên Cổ Âm Như Lai, thế giới tên Tụ Quang. Bấy giờ có công chúa Bát Nhã Nguyệt, tịnh tín Tam Bảo, luôn kính lễ cúng dường và phụng sự không mệt mỏi, trước Thế Tôn nàng đã lập đại nguyện: "Từ thế giới này cho đến khi thế giới tận, hư không giới tận. Tôi dùng thân nữ để độ chúng sanh". Sau khi phát nguyện nàng tinh tấn tu hành  và thành tựu Phật Mẫu độ tất cả hữu tình. Đây là tiền thân của Độ Mẫu Tàrà.

Lại nữa, Khi Quán Âm Bồ Tát quán chiếu tiếng kêu khổ của chúng sanh trong biển luân hồi để tìm phương cứu độ, Bi tâm hóa lệ rơi xuống từ mắt phải biến thành Bạch Độ Mẫu, còn giọt nước mắt rơi từ mắt trái hóa thành Lục Độ Mẫu. Độ Mẫu tổng Tâm Chú là: OM- TÀRE TÀM-SVÀHÀ

Kinh Đại Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi, phẩm Quán Tự Tại Bồ Tát có ghi: "Quán Tự Tại Bồ Tát nhập vào Tam Muội Phổ Quang Minh Đa La, dùng sức Tam Muội nên từ con mắt phóng ra ánh sáng lớn và Đa La Bồ Tát liền nương theo ánh sáng đó mà sinh ra. Ánh hào quang của Đa La Bồ Tát chiếu soi tất cả chúng sanh giống như lòng thương xót của người mẹ hiền nhằm cứu độ con mình (chúng sanh) xa lìa biển khổ sanh tử." Nên Ngài mới có hiệu là Phật Thanh Liên Từ Bi Nhãn. Kinh Tô Ma Hô gọi danh Ngài là Diệu Mục Tinh Bồ Tát. Mật giáo còn tôn xưng danh hiệu Ngài là Bạch Cứu Độ Phật Mẫu (Phật Mẫu có thân màu trắng cứu độ thế gian), xưng tán qua câu: Namo Àrya Tàrà Jvala Bodhisatvàya Mahà-satvàya

Trong Ấn Giáo: Tàrà là vị thần Cứu Hộ đứng thứ hai trong 10 vị đại Thần Nữ Mahà- vidya. Mật Thừa cũng ghi nhận Tàrà là hiện thân của Mahà-devi, Mahà Kàli, Parvatì... Cho nên bậc hành giả chánh tu phải biết được điều này để tránh sự phỉ báng làm tổn hại phước trí của chính mình.

Trong cuộc chiến giữa chư Thiên (Deva) và A Tu La (Asura) đã khuấy động đại dương tạo thành chất độc (Halahala). Vì muốn cứu thế giới và chúng sanh khỏi sự hủy diệt mà Thần Shiva (Đại Tự Tại Thiên Vương Bồ Tát) đã uống tất cả chất độc ấy. Do cường độ độc tính quá lớn nên Thần Shiva đã bất tỉnh, lúc đó Đức Tàra hiện ra, ôm Thần Shiva đặt lên đùi mình và cho bú sữa, sữa từ bầu ngực của Ngài đã hóa giải chất độc và cứu được Thần Shiva. Đồng thời để ngăn chặn cơn thịnh nộ của Mahà Kàli nên Thần Shiva cũng đã hóa mình thành một em bé, làm trỗi dậy bản năng làm mẹ của Đức Kàli nên Ngài đã ôm đứa bé vào lòng và cho bú sữa, nhờ thế mà Thần Shiva đã hút tất cả độc tính phẫn nộ của Đức Kàli. Cho nên Đức Tàra là một hình thức khác của Mahà Kàli, Durga, Paravatì... Vì thế Đức Ta Ra còn được gọi là Kàlika, Ugra-Kàli, Mahà-Kàli và Bhadra- kàli; là vị phối ngẫu của Thần Shiva. 

Phật giáo Tây Tạng đồng hóa Đa La Tôn với Nam Hải Phổ Đà Sơn Quán Tự Tại Bồ Tát, nên tôn thờ Ngài với danh hiệu Đa La Quán Tự Tại Bồ Tát.

Nhân dân Ấn Độ hiện đại thì đồng hóa Đức Đa La Tôn với Mẹ Vũ Trụ và sùng tín Ngài qua ảnh tượng Phật Mẫu Sàkti.

Tín ngưỡng Đức Tàrà Bồ Tát từ Ấn Độ đã lan rộng và phát triển rất mạnh đến nhiều nơi trên thế giới: Trung Hoa, Hàn Quốc, Tây Tạng, Camphuchia,  Nhật Bản, Indonesia, Thái Lan...

Riêng Việt Nam ta, thì tín ngưỡng về Bồ Tát Ta Ra không được phổ thông nhưng tất cả hành giả chánh tu với trí tuệ đều biết Ngài là một hóa thân của Bồ Tát Quán Âm qua Chân Ngôn: Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha.

Trong Mandala Ngũ Trí Như Lai ghi nhận Đức Đa La Tôn là Cứu Độ Phật Mẫu hiển thị cho Thành Sở Tác Trí của Bất Không Thành Tựu Như Lai. 

Hiện đồ Thai Tạng Giới Mandala thì Đa La Tôn có vị trí thứ nhất, phương bên phải (phương tây) của Quán Tự Tại trong Quán Âm Viện. Do Tôn này chủ về 2 đức là Đại Bi và Hàng Phục nên được xem là Phật Mẫu của Liên Hoa Bộ, tôn danh là Đa La Phật Mẫu.

Chánh yếu mà lược nói thì Ta Ra Bồ Tát là Đức Mẹ Hiền của Thánh và phàm, là Đức Đại Từ Bi Mẫu của muôn loài hàm thức, là vị Bồ Tát có lòng Đại Bi vô lượng, hóa thân vô lượng, có thể cứu khổ ban vui và giúp chúng sanh thành tựu mọi ước nguyện, đồng thời có thể nhiếp phục tất cả ác ma và trời rồng quỷ thần, phá trừ tất cả sự nhiễm ô; tịnh hóa tất cả nghiệp chướng, báo chướng, kiến chướng, phiền não chướng... của chúng sanh, giúp chúng sanh nhanh chóng đạt được giác ngộ, đến bờ giải thoát. Ngài là hiện thân của ba đời chư Phật với Đại Trí, Đại Hạnh, Đại Bi, Đại Lực, Đại Hùng, Đại Dũng... Nếu tu pháp của Ngài thì tất cả tâm nguyện đều được thành tựu, tất cả chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh đều ban ân đức gia trì, tất cả Thiên Long Bát Bộ đều theo bảo hộ khiến mau thành tựu đạo quả Bồ Đề, tốc đắc tất cả pháp: Tức Tai, Tăng Ích, Trường Thọ, Hàng Phục... đúng như Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Thụ Ký nói:

Đấng Đại Bi Đa La

Từ Bi của tất cả

Trời, Người với Dạ Xoa

Đều là con của Ngài

Nên hiệu Thế Gian Mẫu

Và cho xuất thế gian.

Quán Âm, Đại Thế Chí

Kim Cương với Thiện Tài

Văn Thù, Tu Bồ Đề

Từ Thị với Hương Tượng

Nguyệt Quang, Vô Tận Ý

Vô Cấu, Hư Không Tạng

Diệu Nhãn với Đại Bi

Duy Ma, Đẳng Bồ Tát

Là con của Ta Ra

Các Như Lai ba đời

Tất cả Ma Ha Tát

Không ai không là con.

Đều xưng là MẸ TA

Nuôi dưỡng các Hữu Tình

Ôm nâng như Đại Địa .

Đấy là tôi lược nói về ý nghĩa và diệu hạnh vô biên của Đức Bồ Tát Ta Ra. Còn về pháp tu Chân Ngôn của Ngài thì ông phải vâng lãnh và y chỉ nơi vị Kim Cương Đạo Sư của mình...

                                               _____ Thích Long Viễn__







Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

THỨ LỚP CHỨNG ĐẠO 
(Diệu Pháp hành thâm viên chứng Thánh quả)

Một hôm, ánh thái dương tà tà xuyên qua khu rừng vắng, buông mình qua những tán lá cây len lỏi vào từng ngọn cỏ, như sưởi ấm lòng người khi màn đêm sắp phủ trùm nhân thế... Lúc ấy cũng có một  vị Thầy tuổi tác đã lớn đến thăm viếng Sư Phụ Long Viễn, sau khi chào đón hỏi thăm và dùng vài cốc trà, thì vị hành giả kia trịnh trọng chấp tay thưa hỏi:

- Hôm nay tôi đến đây, nguyện xin Thầy từ bi hoan hỷ phân biệt về chánh trí tuyệt đối trong Phật giáo, vì sở hành sở chứng của tôi không có nên không thể trạch pháp đúng như pháp mà hành trì, sợ uổng phí một đời tu vô ích, có được không, thưa Thầy?

Sư phụ với ánh mắt từ bi nhìn vị Thầy già kia và nhẹ tiếng thưa:

- Ông cứ tùy ý mà hỏi, nếu liễu giải được thì tôi sẽ vì ông mà nói vài lời.

- Cứu cánh Thánh quả của một hành giả do đâu mà được, thưa Thầy?

Sư Phụ chậm rãi đáp:

- Cứu cánh Thánh quả của một hành giả do nhiều duyên tác chứng, tuy nhiên trọng yếu mà nói thì do Nhập chánh tánh ly sinh mà được.

Vị Thầy già định tâm lắng nghe rất chăm chú, sau đó lại cất tiếng hỏi:


- Xin nguyện Thầy từ bi cho biết thế nào là Nhập chánh tánh ly sinh?

Sư phụ đáp:

- Các Thánh đạo vĩnh viễn diệt trừ mọi thứ điên đảo, gọi là chánh tánh. Ly sinh có nghĩ là lìa hẳn nẻo sinh. Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay do hai phần phiền não là Kiến, Tư hòa hợp mà phát sanh vô lượng tội cấu, ác nghiệp; vì tánh bướng bỉnh, tánh cứng đầu chấp thủ... mà chúng sanh sinh vào các nẻo ác, triền phược, khổ đau, luân hồi... Nay đoạn trừ lần lượt hai phần phiền não này, nên gọi là ly sinh. Khi Kiến Đạo khởi hiện rồi lần lần đoạn trừ từng phần phiền não trên khiến chúng từ từ lần lượt vĩnh viễn trái lìa không hòa hợp được nữa. Pháp thế đệ nhất làm đẳng vô gián duyên cho một phần này nên gọi là Nhập.  Đấy là tôi đã lược nói thế nào là Nhập chánh tánh ly sinh.

- Ở trên Thầy có đề cập đến Pháp thế đệ nhất, vậy xin Thầy từ bi cho biết pháp này là thế nào? - Vị Thầy già hỏi. 

 Sư phụ mỉm cười hoan hỷ nhìn vị Thầy già đối diện trước mặt mình, rồi Ngài lên tiếng trả lời:
 
-  Nếu tâm tâm sở pháp là đẳng vô gián, Nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là Pháp thế đệ nhất. Cũng có thuyết cho rằng: Nếu năm căn là đẳng vô gián, Nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là Pháp thế đệ nhất.

Pháp thế đệ nhất hệ thuộc cõi nào, cõi dục, cõi sắc hay vô sắc? 

- Tùy theo các Tông khác nhau mà có sự phân biệt và nhận định có khác nhau. Ông hãy tác ý lắng nghe, suy nghĩ và tác ý, tôi sẽ vì ông mà lược nói:
   Đại Chúng Bộ nói: Pháp thế đệ nhất thuộc chung cõi dục và cõi sắc. Vì sao? Nếu địa nào có các thế tục trí hiện quán biên thì địa đó tức có Pháp thế đệ nhất.
    Độc Tử Bộ nói: Pháp thế đệ nhất thuộc chung nơi hai cõi sắc, cõi vô sắc. Vì sao? Vì địa nào có các Thánh đạo thì địa ấy tức có Pháp thế đệ nhất.
    Hóa Địa Bộ lại cho rằng: Pháp thế đệ nhất thuộc chung ba cõi. Vì sao? Vì nếu địa nào có tận trí đã tu tập căn thiện thì địa đó tức có pháp này. 
     Pháp Mật Bộ cho: Pháp thế đệ nhất thuộc chung ba cõi và không hệ thuộc. Vì sao? Vì đã gọi là thế tức hệ thuộc ba cõi, vì gọi đệ nhất nên cũng không hệ thuộc cõi nào cả. 

Vị Thầy già kia trầm ngâm một lúc rồi hỏi tiếp:

-  Vậy theo Thầy Pháp thế đệ nhất thuộc cõi nào?

-  Theo ngu ý thì Pháp thế đệ nhất thuộc cõi sắc. Vì sao thế? Vì cõi sắc có thể làm đẳng vô gián duyên cho ba đạo, ba địa, ba căn... lại cũng có thể dẫn phát phẩm pháp trí thứ nhất, kế đến là phẩm loại trí, các cõi khác thì không như thế. Nên Pháp thế đệ nhất thuộc cõi sắc.
500 đại A La Hán và Tôn Giả Thế Hữu cũng đồng một quan kiến này. 

- Tại sao Pháp thế đệ nhất ở cả ba địa, tôi thật tình không hiểu?- Vị Thầy già hỏi.

Đoạn Sư phụ đáp với tâm hoan hỷ vô cùng:

- Vì nhập chánh quán như thật mà liễu triệt về Pháp thế đệ nhất, vì phá kiến chấp sai lầm của các Tông về căn thiện này chỉ ở một địa mà hiện bày thắng nghĩa. Tức là có người chấp:  Pháp thế đệ nhất chỉ có tầm có tứ, có tướng, có tỉnh thức, không phải cùng dẫn phát thuộc về phàm phu duyên nơi các hành. 
Chỉ có tầm có tứ: Tức là tư duy dẫn dắt chuyển biến.
Có tướng: Tức là duyên nơi tên gọi khởi hiện.
Có tỉnh thức: Tức là có công dụng.
Không phải cùng dẫn phát: Tức là không nối tiếp nhau mà chuyển biến.
Thuộc phàm phu: Tức là phàm phu đạt được vậy.
Duyên nơi các hành: Tức là duyên nơi hữu vi.
Cho nên ông phải biết Pháp thế đệ nhất thuộc cõi sắc, vì trong cõi sắc có ba thứ địa: 
1. Địa có tầm có tứ. 
2. Địa không tầm chỉ có tứ. 
3. Địa không tầm không tứ. 

Vị Thầy già vẫn nhắm mắt tư niệm về lời Sư phụ nói, một lúc sau ông mở mắt ra và hỏi tiếp:

-Kính thưa Thầy: Tôi muốn tu tập thứ lớp để các thiện căn đầy đủ, xuất sanh đại định viên chứng đại quả, xin Thầy từ bi khai đạo thứ lớp tu tập như thế nào, được không?

-  Những câu hỏi này chưa ai hỏi tôi bao giờ, ông quả thật là người có trí tuệ lớn. Tuy tuổi tác đã già mà trí tuệ và ý chí không già chút nào. Vậy ông hãy chánh tác ý mà lắng nghe thật kỹ. 
Để thiện căn khai phát và tròn đủ thì có nhiều pháp hành để ông có thể quán chiếu tu tập, tuy nhiên tôi chọn một pháp hành chánh yếu để phương tiện diễn bày cho ông hành trì công phu, các pháp khác cũng giống như thế. 
Thí như ông hành trì quán sát bốn Thánh đế, lấy bốn Thánh đế làm pháp tu chánh yếu trong thiền định của mình, vậy thì phải quán sát thứ lớp như thế nào để thành tựu tất cả thiện căn mà viên thành Thánh giải thoát lậu tận? Khi ông quán sát bốn Thánh đế hãy lập làm ba phần là: Danh, Tự tướng, Cộng tướng.
Danh: Tức tên gọi như đây là Khổ đế... cho đến Đạo đế.
Tự tướng: Nghĩa là đây là tự tướng của Khổ đế... cho đến đây là tự tướng của Đạo đế.
Cộng tướng: Nghĩa là bốn hành tướng. 
Ông quán Khổ đế với bốn thứ Cộng tướng là bốn hành tướng:
1. Khổ
2. Vô thường
3. Không
4. Vô ngã
Ông quán Tập đế với bốn thứ Cộng tướng là bốn hành tướng:
1. Nhân
2. Tập
3. Sinh
4. Duyên
Ông quán Diệt đế với bốn thứ Cộng tướng là bốn hành tướng:
1. Diệt
2. Tĩnh
3. Diệu
4. Ly
Ông quán Đạo đế với bốn thứ Cộng tướng là bốn hành tướng:
1. Đạo
2. Như
3. Hành
4. Xuất
Ông hãy duyên nơi bốn đế này mà tu trí, tu chỉ. Lần lượt quán chiếu như trong Kiến đạo. Nghĩa là trước tiên chánh quán riêng khổ nơi cõi dục, sau đó hợp quán khổ nơi cõi sắc và vô sắc. Trước quán riêng Tập nơi cõi dục, sau đó hợp quán nơi cõi sắc và vô sắc. Trước quán riêng Diệt nơi cõi dục, sau đó lại hợp quán nơi cõi sắc và vô sắc. Trước quán riêng Đạo nơi cõi dục, sau đó tiếp tục hợp quán nơi cõi sắc và vô sắc. 
Quán chiếu bốn Thánh đế như vậy là chánh quán với trí tuệ, như một nhà họa sĩ chuyên nghiệp tài ba muốn vẽ một bức tranh phong thủy tuyệt sắc thì trước nên xem xét, chọn vải lụa tốt, sau đó chọn các màu sắc và cuối cùng là vẽ hình tượng đẹp đúng như ý. Ngang đây là sự tu tập tuệ do Văn tạo thành mới được viên mãn. Dựa vào tuệ Văn này mà phát sanh tuệ do tạo thành, viên mãn rồi. Từ tuệ viên mãn tiếp đến phát sinh tuệ do Tu tạo thành, tức gọi là Noãn. Sau Noãn sinh Đảnh, sau Đảnh sinh Nhẫn, sau Nhẫn sinh Pháp thế đệ nhất, sau Pháp thế đệ nhất sinh Kiến đạo, sau Kiến đạo sinh Tu đạo, sau Tu đạo sinh đạo Vô học. Theo thứ lớp như thế căn thiện được đầy đủ. Từ thiện căn tròn đủ mà thành tựu cứu cánh Phạm hạnh, viên thành Đại Giác.

Vị Thầy kia không biết liễu ngộ thế nào mà đôi mắt ông chợt sáng long lanh, có pha lẫn nước mắt. Ông nhìn Sư phụ một lúc rồi lại thưa:

- Thiện căn có bao nhiêu thứ? Xin Thầy từ bi vì tôi mà phân biệt giải nói?

 Sư phụ chậm rãi đáp lời:

- Thiện căn có ba thứ là:
1. Thiện căn thuận phần phước: Nghĩa là gây tạo chủng tử sinh làm người, chủng tử sanh làm chư thiên.
2.Thiện căn thuận phần giải thoát: Nghĩa là gieo trồng chủng tử quyết định giải thoát, do đó mà nhất định chứng đắc Niết Bàn.
3.Thiện căn thuận phần quyết định lựa chọn: Nghĩa là Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất.
Nếu ông đã hỏi về diệu Pháp thâm sâu như thế này, những Pháp này thật khó thấy và khó nghĩ bàn, không có thời gian đến để mà thấy, chỉ có người trí mới có thể giác hiểu. Do đó ông nên đúng y như Pháp mà hành trì, nếu ông y Pháp mà hành trì thì gọi là từ Pháp hóa sanh, nhất định ông có thể chứng ngộ Vô Sanh trong đời này. 
Cố gắng!
Cố gắng!
-------------------------------
Buổi Pháp thoại kết thúc, vị hành giả kia như uống được cam lồ giữa sa mạc nóng bức, đôi mắt ông rưng rưng lệ, hai tay chấp lại nguyện sẽ đúng như Pháp đã nghe mà hành trì, để báo đền thâm ân của Sư Phụ Long Viễn, sau đó ông đảnh lễ và lui ra. 






Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

 Tri Môn Cảnh Huấn:

Bất hạnh lớn nhất của đời người là chấp lầm tự ngã, chính lầm chấp tự ngã là của ta, là ta, là sở hữu của ta nên khát ái gom về mọi đắm say sầu hận ai bi... Nếu buông xuống tự ngã thì không phải là giải thoát ư? 

                                                     -- Lương Sơn Long Viễn--